Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2020

ĐI TÌM PHÙ ĐỔNG

ĐI TÌM PHÙ ĐỔNG

Theo thói quen từ thuở xa xưa, cứ mỗi lần dân nước gặp phải những tang thương thật lớn, chúng ta thường hay có những ước mơ cũng thật lớn, bằng cách cầu khẩn Ơn Trên gởi đến cho ta một vị cứu tinh. Giống như trong truyền kỳ Phù Đổng, mọi người cùng nhau đi tìm vị cứu tinh, đấng anh hùng đó. Rồi, sâu trong lòng, chúng ta cũng có những ước mơ riêng, ước mơ rằng biết đâu mình sẽ là vị cứu tinh đó, đấng anh hùng đó ... hoặc cao hơn nữa, biết đâu ta sẽ là vị Minh Quân, vị Quân Vương diệt giặc, cứu muôn dân.

Lồng kín trong những ước mơ kia là những sự tính toán thật kỹ lưỡng. Nếu Trời thực sự thương ta, cho ta thành vị cứu tinh, thì bọn giặc kia sẽ phải tan tành, mà ta thì khỏi phải lo gì, sợ chi, vì đã có Trời lo giùm ta. Hoặc nếu Trời cho ai khác làm vị cứu tinh, thì ta càng sướng hơn nữa, vì trước sau gì vị đó cũng sẽ cứu dân nước thoát được khổ nạn. Việc nước là việc của Trời, hoặc của ai đó, không phải của ta.

Các Cấp Độ Sinh Hoạt trong Xã Hội:

1. Cấp Cá Nhân

Những người này tự thấy mình nhỏ bé. Họ núp sâu trong thế giới riêng tư, tâm trí họ cách biệt mọi người. Họ không cần ai lo cho họ, cũng như họ chẳng muốn phải lo cho ai.

2. Cấp Gia Đình

Họ lo cho ông bà, cha mẹ, vợ/chồng, và con cháu của họ. Đối với những người này, "Đèn nhà ai nấy sáng."

3. Cấp Gia Tộc

Ngoài việc lo cho bản thân và gia đình của riêng họ, những người này biết lo nghĩ đến mọi người thân thuộc trong gia quyến của họ, làm sao để tăng triển hạnh phúc chung của dòng tộc.

4. Cấp Làng

Họ lo cho mọi người trong một khu vực, bất kể thân sơ. Ở các thành phố hoặc nơi đô thị, họ tham gia những sinh hoạt cộng đồng, hiệp hội, đoàn thể. Các sinh hoạt chính trị thường bắt đầu từ đây.

5. Cấp Tỉnh/Tiểu Bang

Họ soạn thảo các chính sách, lãnh đạo sinh hoạt chính trị, lo việc phát triển kinh tế, an ninh dân sự và quân sự, chu toàn việc giáo dục và đào tạo nhân tài cho xã hội ở cấp tỉnh hoặc tiểu bang.

6. Cấp Quốc Gia

Trách nhiệm quan trọng nhất của cấp này là sự an ninh của quốc gia, thứ đến là sự thịnh vượng của dân nước. Ở cấp này, sự hiểu biết về tình hình chính trị, kinh tế và quân sự của các quốc gia trên thế giới là quan trọng nhất.

7. Cấp Quốc Tế

Với khả năng phá nát trái đất của một vài quốc gia trên thế giới, các quốc gia này phải có những hiệp ước để tránh sự đụng độ quân sự trực tiếp. Các thế lực này thường chia vùng để cai trị trái đất bằng những liên minh mà họ đã lập ra.

8. Cấp Toàn Cầu

Cấp này gồm các hệ thống nhà băng và các công ty liên quốc. Họ có khả năng hoạt động bên ngoài tầm kiểm soát của các quốc gia. Hơn nữa, họ còn có khả năng soạn thảo các chính sách quốc tế mà các cấp quốc gia thường phải thực thi.

9. Cấp Nhân Loại

Trong lịch sử nhân loại, có những con người có khả năng truyền đạt những tư tưởng xuyên văn hoá, vượt thời không. Những người này thường được tôn vinh thành những vị giáo chủ, hoặc những thánh nhân, triết gia, lý thuyết gia, và khoa học gia giỏi nhất của nhân loại.

PHÙ ĐỔNG Ở CÁC CẤP
1. Cấp Cá Nhân: Đọc Sách Báo và Luyện Võ Công

Văn và võ đều phải lấy lễ làm gốc. Không đọc sách và không theo dõi tin tức để cập nhật sự hiểu biết của mình thì khả năng suy xét không thể phát triển được. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức con người có khả năng biết được cách bộ óc làm việc ra sao. Giữa hai người, nếu một người biết bộ óc làm việc ra sao và người kia không biết, thì người không biết sẽ bị người có hiểu biết điều khiển. Đại khái, bộ óc hoạt động theo trực giác và bản năng sinh tồn. Muốn không bị người khác điều khiển thì phải đặt sự suy xét của mình trên nền tảng khoa học khách quan. Phải nhớ rằng trên thực tế khoa học cũng như trong tình nghĩa đồng bào, mọi người ai ai cũng hoàn toàn y như nhau. Ai giỏi hoặc mạnh chỗ này thì chắc chắn là dở và yếu chỗ khác. Đó là lý do tại sao muôn loài cần phải có nhau.

Mục tiêu cao nhất trong sự luyện tập võ công là khả năng làm chủ được phản ứng của mình. Khả năng của người luyện võ là do sự quyết định rằng họ sẵn sang chiến đấu với ai, chiến đấu tới đâu và bằng cách nào. Muốn cứu nước, khả năng chiến đấu của một chiến sĩ phải được đặt trên nền tảng của sự hiểu biết về khả năng của giặc. Trong chiến tranh, không có loại vũ khí nào nguy hiểm hơn là sự phản bội, cho mình lẫn cho giặc.

2. Cấp Gia Đình: Tiên Rồng và Âm Dương

Vợ có lúc là rồng, có lúc là tiên, chồng cũng vậy. Cả hai vợ chồng cũng có thể cùng là tiên hoặc cùng là rồng, nhưng lúc nào cũng phải là một. Vợ chồng là như chỉ có một thân xác, một bộ óc, một tâm hồn và một tuệ linh như nhau. Nếu vợ chồng không cùng nhau chiến đấu, hổ trợ lẫn nhau, thì khả khả năng chiến đấu của gia đình đó chỉ được một nửa. Họ chỉ có thể duy trì sự đấu tranh, chứ không thể chiến thắng được giặc, vì họ có kẻ hở trong sức mạnh của một gia đình. Cùng vợ cùng chồng thì mới mong tát được biển đông. Khi vợ chồng cùng là một như nhau thì con cháu cũng sẽ được trở nên một với cha mẹ của tụi nó.

Âm dương là sự phân biệt về khả năng của vật chất. Sự hiểu biết về âm dương giúp cho ta giữ được sự quân bình cho thể xác của mỗi người. Âm từ lòng đất, dương từ mặt trời. Sức sống của âm kín đáo và tiềm tàng. Sức sống của mặt trời thì lúc mạnh lúc dịu. Ở trong cơ thể của con người, trí óc là mặt trời và cơ thể là trái đất. Cho nên, biết âm dương là biết sống thuận theo sự vận chuyển tự nhiên của đất trời, cho vũ trụ bên ngoài lẫn bên trong. Sự vận chuyển tự nhiên này đã được ghi chép kỹ càng trong Kinh Dịch. Tóm lại là "dục tốc bất đạt," hoặc là vội thì không thành.

3. Cấp Gia Tộc: Chính Trị và Lãnh Đạo

Vì gia đình là đơn vị nền tảng của xã hội cho nên khả năng chính trị bắt đầu từ lúc hai hoặc nhiều gia đình cùng muốn hợp tác với nhau. Chính trị cấp gia tộc là sự tổ chức để cùng nhau phát triển. Chính trị bắt đầu bằng khả năng thấy. Muốn thấy được ai thì phải hỏi xem họ muốn gì và những khả năng của họ là gì. Kế đến là giúp nhau phát triển những cái mạnh, cái hay và đồng thời cùng giúp nhau vượt thoát những cái yếu, cái dở trong nhau. Trong sinh hoạt gia tộc, phải có lễ trong lời nói, bất kể già trẻ.

Lãnh đạo ở cấp gia tộc là sự tình nguyện hy sinh để chu toàn việc chung. Ai hy sinh đến đâu trong việc gì thì khả năng lãnh đạo của họ đến đó. Vì hy sinh là sự đóng góp mà không đòi hỏi sự đền bù cho nên người hy sinh cho gia tộc được có chức tước. Các chức tước này được dùng để biểu trưng cho trách nhiệm và bổn phận, không phải là quyền lực sai biểu người khác.

4. Cấp Làng: Đơn Vị Chiến Đấu của Quốc Gia

Sinh hoạt của làng cần có một hội đồng lãnh đạo được dân trong làng bầu lên. Ở nơi đô thị, làng là một cộng đồng. Mặc dù lễ vẫn là nhu cầu nền tảng cho sự hợp tác giữa người và người, sinh hoạt của làng phải được đặt trên lý lẽ đàng hoàng. Trong sinh hoạt hợp tác, lý lẽ là sự bày tỏ nhu cầu của mỗi người, mỗi gia đình và mỗi gia tộc. Theo sau là hội đồng lãnh đạo phải so sánh giữa các nhu cầu và khả năng cung cấp của làng hoặc cộng đồng về nhân lực, tài lực và vật lực. Các hội đồng lãnh đạo của làng phải liên lạc chặt chẽ để hổ trợ cho nhau, nhất là các làng gần kề nhau. Làng cũng là nơi sinh hoạt tình báo để biết giăc biết ta.

Trong hoàn cảnh đất nước của chúng ta hiện nay, chắc chắn giặc đã cài người vào mọi tổ chức để theo dõi, kiểm soát, gây rối hoặc tạo loạn cho hội đồng lãnh đạo và cho cả làng. Kỹ thuật nền tảng của chiến tranh tình báo là gián điệp chỉ lo việc báo cáo còn trung ương các cấp lo việc tấn công để ảnh hưởng đối phương. Vì vậy cho nên khả năng phản gián là khả năng quan trọng nhất của một tổ chức tình báo. Tình báo của người Việt được đặt trên chữ tình, tình hình và tình người, hoặc tình hình về tình người của ai đó đang ra sao.

5. Cấp Tỉnh/Tiểu Bang: Một Quốc Gia Thu Hẹp

Cấp tỉnh/tiểu bang liên lạc và hợp tác trực tiếp với cấp quốc gia. Để có được khả năng đáp ứng với những nhu cấu của quốc gia, sinh hoạt của một tỉnh/tiểu bang phải như một quốc gia thu hẹp. Ở cấp này, các chuyên viên phải tạo được những thành quả rõ ràng về lãnh đạo và sự điều động sinh hoạt của các làng/cộng đồng. Hơn nữa, các luật lệ sinh hoạt cũng phải rõ ràng để tránh sự chia rẽ.

Mặc dù mọi sinh hoạt đấu tranh ở các cấp phải được giấu kín, hội đồng lãnh đạo của cấp tỉnh/tiểu bang cũng là một bộ tham mưu cấp chiến lược, có nghĩa là những người này phải am hiểu tình hình và khả năng của các quốc gia có liên hệ trực tiếp đến vận mệnh của tổ quốc mình. Hội đồng lãnh đạo cấp này phải soạn thảo được sách lược ăn khớp với các sách lược của thế giới tự do một cách hợp tình và hợp lý.

6. Cấp Quốc Gia: Đại Chiến Lược và Đại Chiến Thuật

Trong sinh hoạt toàn cầu, quốc gia là đơn vị nền tảng. Sự liên hệ giữa các quốc gia không có tình, chỉ có lý. Mỗi quốc phải tự đấu tranh cho sự sinh tồn của riêng mình. Các liên hệ đồng minh luôn luôn tùy theo nhu cầu của từng quốc gia mà hiệp lại hoặc tan rã. Liên Hiệp Quốc chỉ là nơi thương lượng và điều hợp. Các pháp luật quốc tế chỉ là những thỏa thuận chung chung. Những thỏa thuận này nếu có bị vi phạm thì cũng không có sự trừng phạt nhất định. Ở cấp quốc tế thì mạnh được yếu thua, ngu thì ráng chịu. Ở cấp này, hoạt động chính trị là những gì lạnh lùng và tàn nhẫn nhứt mà con người có thể nghĩ ra.

Các hoạt động đấu tranh để cứu dân nước ở cấp quốc gia đều phải dựa vào sách lược. Ngoại giao ở cấp này nếu chỉ đi "ăn xin độc lập, ăn mày tự do" thì chỉ tạo ra sự khinh chê trong thâm tâm của mọi người mà thôi. Đại chiến lược và đại chiến thuật của một quốc gia phải được lập nên do sự nghiên cứu tường tận và rõ ràng của toàn thể dân tộc kết hiệp lại, chứ không thể nào một nhóm người hoặc một đảng phái có thể nghĩ ra được.

7. Cấp Quốc Tế: Các Liên Minh của Sức Mạnh

Hiện tại, các liên minh quốc tế đang tạo ra sự căng thẳng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự an nguy từng ngày của nhân loại và trái đất. Trong những liên minh này gồm có: khối tư bản, khối cộng sản, khối Hồi giáo, khối da trắng, khối da đen, khối ma túy, khối độc đảng, và khối dân chủ. Liên minh mạnh nhất trái đất hiện nay là liên minh giữa Hoa Kỳ, Anh Quốc và các đồng minh của họ. Liên minh đối lập mạnh thứ nhì là liên minh giữa Tàu, Nga và các đồng minh của họ. Các liên minh đang tạo nên lịch sử cho nhân loại hiện nay. Những niềm tự hào và oán thù từ nghìn xưa vẫn sống mạnh trong các khối quyền lực này. Những mưu đồ và sách lược chiếm đoạt và cai trị vẫn đang được thực thi.

8. Cấp Toàn Cầu: Sự Cai Trị Trái Đất

Các công ty liên quốc và các hệ thống nhà băng cai trị trái đất bằng cách tận dụng khả năng của những thần đồng và thiên tài của nhân loại. Ở cấp này, đồng tiền và loài người chỉ là những con số trong máy điện toán. Ở cấp này, con người lạnh như tiền. Mặc dầu vậy, nhu cầu quan trọng nhất của cấp này là sự không thay đổi. Vì họ không thích sự thay đổi cho nên những ai muốn thay đổi cán cân thế lực trên trái đất này thường bị họ giết đi.

9. Cấp Nhân Loại

Cái gì con người có không thể nào so sánh được với những gì vũ trụ có. Vũ trụ này có những định luật bất di dịch, như định luật yêu thương, định luật tương phản và định luật nhân quả. Từ nơi sâu thẵm của đáy hồn người ra đến các hành tinh trong vũ trụ, ai gieo gì gặt nấy.

LÀM NGƯỜI VIỆT

Làm người Việt, ai ai trong chúng ta cũng đều có thể đánh thức tinh thần Phù Đổng trong chính mình, để đóng góp vào đại cuộc cứu dân cứu nước trong bất cứ lãnh vực chuyên môn và cấp độ nào.

Sự khác biệt giữa các cấp độ là khả năng soạn thảo sách lược. Ai soạn thảo được sách lược ở cấp độ nào thì sinh hoạt hoặc lãnh đạo ở cấp độ đó.

Một nhà lãnh đạo ở một cấp cũng có thể là người thừa hành ở một cấp khác. Tồi tệ nhất là khi một nhóm người lãnh đạo một quốc gia mà lại đi làm bầy tôi cho chính quyền của một quốc gia khác, hoặc làm kẻ thừa hành cho một chủ trương cấp quốc tế.

Hơn nữa, có một loại người độc lập trong đời sống mà lại bị lệ thuộc vào một hệ thống tư tưởng ngoại lai, như một tôn giáo chẳng hạn, hoặc một chủ nghĩa không phát nguồn từ truyền thống dân tộc, như tư bản, hoặc cộng sản. Một con người sống theo một hệ tư tưởng nào thì trở thành loại người của hệ tư tưởng đó.

Muốn giữ được sức mạnh, sức sống của bất cứ một vật gì, chúng ta phải duy trì truyền thống sinh tồn của nó. Trong đại cuộc cứu dân cứu nước cũng vậy, chúng ta phải duy trì truyền thống sinh hoạt và đấu tranh của tổ tiên mình, dựa trên lịch sử và nền văn hoá, văn minh Tiên Rồng của Tộc Việt.

Sức mạnh của Phù Đổng ở cấp quốc gia là do sự hổ trợ của toàn dân mà hiện thực. Một đảng phái hoặc hệ thống chính quyền nào biết thực sự thương lo cho toàn dân thì toàn dân chắc chắn sẽ thương lo cho nước. Khi nước nhà là một, thì mọi sức mạnh của ngoại bang sẽ phải dừng lại ở mọi biên cương, không phải chỉ ở biên cương của lãnh thổ quốc gia.

NHẬN THỰC CHÍNH MÌNH

Ai ai cũng suy tư. Ai ai cũng ước mơ. Nhưng trong sinh hoạt xã hội, nhất là việc nước, nếu mỗi người chúng ta không nhận thực được khả năng của chính mình, thì chúng ta sẽ chỉ gây thêm sự rối loạn cho dân nước, chẳng giúp ích được gì cho ai cả.

Khi dân nước rối loạn, thì tất cả trở nên mồi ngon cho mọi kẻ gian và người ác, trong và ngoài nước. Đại cuộc cứu dân cứu nước cần có một Tổ Chức Cứu Nước. Tổ chức đó phải biểu hiện được những lý tưởng và ước mơ của toàn dân, như tự do dân chủ và bình quyền, bình đẳng.

SỰ KHÉP MÌNH VÀO MỘT TỔ CHỨC CỨU NƯỚC

Trong một tổ chức, tự do dân chủ và bình quyền, bình đẳng không có nghĩa là ai muốn làm gì thì làm. "Người nào việc nấy" chỉ có ý nghĩa khi mọi người trong tổ chức đó đang cùng nhau thực thi một chính sách, một mục tiêu rõ rệt. Còn không, chúng ta chỉ là những cá nhân quá nhỏ bé với những ước mơ không bao giờ hiện thực được.

Một tổ chức cứu nước khác với một đảng phái chính trị hoặc một hiệp hội thương mại. Một hiệp hội thương mại lấy lợi lộc để làm nền tảng cho chính sách và hành động. Một đảng phái chính trị lấy quyền lực để làm mục tiêu tối hậu. Nhưng một tổ chức cứu nước lấy việc giúp dân để làm nền tảng cũng như mục tiêu.

Sự khép mình vào một tổ chức cứu nước đòi hỏi một khả năng tự khắc cùng với một sự hy sinh cao cả nhất của một con người. Người đi cứu nước thương dân như bản thân mình, cho nên lấy tình nghĩa đồng bào ruột thịt để làm gốc cho sự suy nghĩ và hành động của chính mình. Người đi cứu nước xem nước là mạch máu của tổ tiên và dân tộc mình, cho nên hiến dâng cuộc đời mình để mưu cầu hạnh phúc cho toàn dân.

- Hỏi: "Thế Nước yếu, lấy gì lo Chiến Chinh?"
- Đáp: "Hy Sinh!"

CHIẾN SĨ TIÊN RỒNG

CHIẾN SĨ TIÊN RỒNG

Chân Lý Yêu Thương

Chân lý là những gì không bao giờ thay đổi. Chân lý như gương soi. Gương càng trong thì phản ảnh càng rõ. Chân lý giúp cho con người nhận ra mình. Từ sự nhận ra chân tánh của mình, Bạn mới có khả năng thấy được chân tánh của từng người, của mọi người và vạn vật.

Yêu thương là quyền năng cao cả và dũng mãnh nhất trong con người. Yêu thương tự nó không có giới hạn, mà chỉ có giới hạn khi con người tự coi mình là khởi điểm. Nếu một người sống như mình chỉ là một phương tiện Sống Động để yêu thương được trở nên Hiện Thực, thì sự yêu thương đó là chân lý.

Sáu Thức Năng Trong Con Người

Trong thân lực, con người có sinh thức. Trong trí lực, con người có ý thức. Trong tâm tình, con người có tâm thức. Trong thần lực, con người có thần thức. Trong hồn thiêng, con người có linh thức. Trong Đạo nghĩa, con người có siêu thức.

Thần thức là phương tiện để Bạn thấy rõ những thức năng khác của mình. Thân xác có dục tính và lực tính. Không có thân xác thì thần khí của con người không có nơi hội tụ để hiện thực. Lý trí có sự nhận thức và suy luận. Muôn vật dựa vào lý tính để có được trật tự. Tâm hồn có yêu thương và tình người. Không có tâm thì con người không có khả năng trở nên như một với nhau, với muôn loài, và cùng với vũ trụ. Tuệ là cửa ngỏ của Tâm Linh, là Con Mắt Thứ Ba trong con người. Qua ngưỡng cửa này, mỗi người tự thấy được rằng trong tâm linh con người có Thần, Hồn, và Đạo.

Vũ Trụ Tâm Linh và Thế Giới Loài Người

Ở nơi thế giới bên ngoài, ai ai cũng tự biết rằng mình có thể xác, lý trí và tình cảm. Nhưng bên trong của mỗi người chúng ta là cả một vũ trụ tâm linh. Sống với vũ trụ bên trong là sống với sự thật (truth) về chính mình. Sống với thế giới bên ngoài là sống với sự thực (reality). Lối sống của mỗi người là phản ảnh của bản tánh bên trong. Thân xác là phản ảnh của hồn; lý trí là phản ảnh của thần; và tâm tình là phản ảnh của Đạo.

Vũ Trụ Tâm Linh

Đạo là mối liên hệ tối ưu mật thiết giữa con người và Thánh Linh, hoặc Đấng Tối Cao, Thượng Đế, Thiên Chúa, Chân Tánh của Phật, và Nguồn Sống của tất cả mọi nguồn sống. Mối liên hệ này tạo ra chiều kích linh thiêng trong con người, cho con người thấy được rằng sự yêu thương bất diệt cũng hiện hữu nơi chính mình. Đạo cho con người sự bình yên và hạnh phúc trên tất cả mọi bình diện sống thật và sống thực trong cuộc đời. Không có mối liên hệ này, con người sống duy vật, sống vô thần. Con người duy vật vô thần luôn luôn hơn thua với mọi người, luôn luôn đấu tranh giành giựt, để mong đạt được những hưởng thụ vật chất mà mình chưa có và muốn có. Cuối cùng, con người duy vật vô thần dựa vào sự lừa gạt và chém giết để sống còn. Trong thế giới duy vật vô thần, con người chỉ thích sống bằng thân xác và lý trí. Họ coi yêu thương là hư không. Đối với họ, tình, thần, hồn và đạo chỉ là ảo ảnh của tư duy.

Thần là sự sáng hằng hữu. Thần thức của con người có khả năng quan trọng nhất là sự thấy được mối Đạo trong mình và thấu được hồn mình. Người chiến sĩ lấy Thần Hồn Đạo để làm nền tảng sống thật với chính mình và để sống thực với mọi người. Với ánh sáng của thần thức, con người có khả năng nhìn thấu được chân tánh của bất cứ một hiện tượng nào hoặc một hữu thể nào. Có Đạo thì con người có được Thần. Có Thần thì con người thấy được Hồn.

Hồn là nơi chứa đựng tất cả, một ký ức vô lượng, một sức nhớ vô biên. Bản tánh và hình hài của linh hồn là yêu thương. Yêu thương cũng là bản tánh và hình hài của Thánh Linh trong mỗi con người. Vì là yêu thương cho nên linh hồn cũng là nơi ngự trị của hạnh phúc. Hạnh phúc của linh hồn phải được nuôi dưỡng bằng tình yêu chân thật và hiện thực. Yêu thương đến đâu thì hạnh phúc đến đó. Hồn lặng yên và trống không như bóng tối của vũ trụ. Hồn trống không, yên lặng và tối tăm, để muôn loài được tự do hiện hữu, tự do yêu thương, tự do sinh hoạt, và tự do sinh sống.

Thế Giới Loài Người

Nhìn vào chiều dài lịch sử, chúng ta thấy những kỳ công của các đế quốc được dựng nên bởi máu xương con người, bởi sự tiêu diệt muôn loài. Cũng như có lần, một đế vương của khối Ả Rập sai người đi xem xét tình hình ở vùng đất mà vó ngựa Mông Cổ đã dẵm qua. Khi các chiến binh của đế vương gần đến vùng đất đó, thì họ bỗng thấy một hòn núi trắng ở phía xa trong đêm tối. Họ xuống ngựa và tiến dần đến hòn núi đó. Mùi hôi tanh nơi mũi họ tăng dần. Bước chân của họ đạp lên những vật gì sềnh sệch. Khi soi đuốc nhìn kỹ, thì họ thấy mặt đất dưới chân mình trải đầy thịt máu người. Đến gần hòn núi trắng, thì những chiến binh oai hùng nọ mới nhận ra núi trắng kia là núi làm bằng xương sọ con người chồng chất (Richard A. Gabriel, Genghis Khan’s Greatest General: Subotai the Valiant, 2006). Lịch sử loài người đầy dẫy những sự kiêu hãnh của những kẻ cực ác. Trong lòng họ, giết chóc và chiếm đoạt là mục tiêu duy nhất cho sự sinh tồn của riêng họ. Trong thế giới duy vật của họ, ai giết được người thì sống, ai không giết được người thì sẽ bị người giết.

Để mong đạt được sự thống trị triệt để trên mọi mặt, những kẻ cực ác còn tạo ra hệ thống pháp luật phi nhân. Từ những sinh hoạt xã hội cho đến sự bộc lộ suy tư của từng người dân, hậu quả cho những ai không chấp nhận kiếp nô lệ là sự trừng trị bằng nhục hình đau đớn, bằng tù đày man rợ, hoặc bằng những cái chết ghê rợn. Pháp luật phi nhân là pháp luật không có sự đồng thuận của dân, không phải bởi dân, vì dân, và cho dân. Sự phi nhân này khởi nguồn từ sự độc đoán trong lý thuyết và độc tài trong chính trị. Hậu quả của sự phi nhân là sự áp đặt, cưỡng bức, chiếm đoạt và giết chóc. Trong khi đó, giai cấp thống trị, con cháu của họ cùng những bầy tôi tớ của họ, được toàn quyền hưởng thụ lối sống trên đầu trên cổ người dân, bên ngoài pháp luật. Hơn nữa, đó cũng là một loại pháp luật mà họ được tự do diễn dịch hoặc thay đổi theo ý muốn riêng tư và bất cứ lúc nào.

Giữa những bể khổ vô vọng do các nền văn hóa chủ nô trị tạo nên, con người cũng có những nổ lực yêu thương cho nhau. Từ tình yêu cá nhân đến lòng yêu thương tập thể, rất nhiều người vẫn đang cố gắng sống vì hạnh phúc của tha nhân. Mặc dù vậy, tình thương yêu hiện hữu trong thế giới loài người thường có nhiều giới hạn, giới hạn của cải, giới hạn bằng cấp, giới hạn tình cảm, và giới hạn hiểu biết. Bên ngoài những ranh giới là sự vô tâm, vô tình, và vô cảm. Đi kèm theo sau là những hành động ích kỷ, ganh ghét, và thù hằn.

Tình yêu thương bên ngoài là vô nghĩa, nếu sự yêu thương bên trong không chân thật. Cho nên, đời sống tâm linh là cội nguồn của sự hành xử giữ người và người. Tình yêu thương là ngưỡng cửa của tâm hồn. Trong cuộc hành trình làm người trên trái đất này, khả năng yêu thương trong con người cũng lớn khôn dần, lần mò theo sự hiểu biết của chúng ta về những căn nguyên của những hạnh phúc chung, và những khổ đau chung.

Nước Mắt Người Dân

Trong nước mắt con người có khổ đau, buồn tủi, nhục nhã hoặc hổ thẹn. Trong nước mắt cũng có hạnh phúc, yêu thương, hãnh diện, và sướng vui. Mục tiêu chiến đấu của người chiến sĩ là làm sao ngăn cản được những giòng nước mắt đong đầy khổ đau và tủi nhục, xóa tan được sự hổ thẹn cùng những muộn phiền trong lòng người dân. Khi một giọt nước mắt tươi vui từ trong đáy hồn và tim gan của một sinh linh rơi xuống mặt đời, thì đất trời, cỏ cây cùng sông suối cũng reo vui, nhưng ngược lại thì cũng vậy. Cho nên, người chiến sĩ phải biết lấy niềm vui và nỗi buồn của dân để làm khí cụ thúc đẩy sự thành công của mình trong trách nhiệm và bổn phận Yêu Nước Thương Dân.

Võ Đạo và Võ Khí

Võ Đạo của người chiến sĩ là sự nương tựa vào chính mình để chiến đấu và chiến thắng. Người chiến sĩ Tiên Rồng dùng quyết định chiến đấu bằng tất cả những gì là Hồn, Thân, Tâm, Trí, Thần, và Đạo của mình để làm Cột Trụ Đấu Tranh. Để tạo được Thần Lực của Võ Đạo, Bạn hãy đặt Hồn mình vào lòng hai bàn chân, nơi sâu nhất; đặt Thân lực của mình vào bụng dưới, nơi đáy lòng; đặt Tâm tình vào nhịp tim; đặt Trí vào hơi thở; đặt Thần vào giữa hai mắt; và đặt Đạo ở đỉnh đầu. Khi Sáu Thức Năng trong con người đã có chỗ trụ, thì các thức năng liên hiệp với nhau thành Cột Trụ Sức Mạnh. Cột Trụ Sức Mạnh là phương tiện sinh tồn, là dụng cụ đấu tranh, là võ khí chiến đấu, là Ngựa Lửa và Roi Sắt để Bạn Đánh được Giặc, Cứu được Dân.

Hai mặt sống Tiên Rồng trong Bạn là hai mặt sống của yêu thương và chiến đấu. Yêu thương mà không chiến đấu là hèn nhát. Chiến đấu mà không yêu thương thì trở nên vô tình. Bạn hãy nhớ, rằng để Thắng Giặc Cứu nước, ngựa lửa và roi sắt của người chiến sĩ phải luôn luôn được vận dụng bởi sức mạnh yêu thương và tinh thần chiến đấu vì yêu thương của Đức Phù Đổng Thiên Vương, vị Thần Trời Nước Việt.

Thiên Tâm Thần Võ và Vô Cực Quyền

Khi sự yêu thương hằng hữu của Thánh Linh trở nên một với tình yêu thương trong lòng Bạn, đó là lúc Thiên Tâm đang hiện hữu trong Bạn. Khi Bạn sống thật với chính mình, và sống thực với mọi người, bằng sự yêu thương đó, thì Bạn đang sống bằng Thiên Tâm Đạo. Khi linh hồn cùng thần thức của Bạn vực dậy và bừng sáng để chiến đấu, để bảo vệ sự yêu thương đó, đó là lúc Bạn đang chiến đấu bằng Thiên Tâm Thần Võ. Khi yêu thương của Thánh Linh là một trong sự động tĩnh của thân lực Bạn, đó là lúc Bạn đang vận dụng môn võ Vô Cực Quyền. Võ sĩ chính là Bạn. Chiến sĩ cũng là Bạn.

Này Bạn,

Trái đất đang chuyên chở Bạn. Một vũ trụ vô tận đang bảo bọc Bạn. Tình sâu nghĩa nặng của Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ và những người thân thương của Bạn đang nuôi dưỡng tâm hồn của Bạn. Sự thông hiệp của các đấng thiêng liêng cùng với Thánh Linh đang hằng hữu trong tâm linh của Bạn. Bạn hãy dùng lấy quyền năng yêu thương tuyệt đối của chính mình để làm chìa khóa giải thoát những do dự và rụt rè trong tâm trí Bạn. Bạn hãy dùng lấy Bốn Sức Sống của Hoa Tiên Rồng, cùng với Sáu Thức Năng trong chính mình, để quyết định trở nên phương tiện của Yêu Thương, để trở nên người Chiến Sĩ Dân Tộc, người Chiến Sĩ Tiên Rồng, tinh thông và dũng mãnh, an nhiên tự tại và thiên biến vạn hóa. Bạn hãy quyết định đi. Quyết định đi.

Thiên Tâm Thần Võ, Thiên Tâm Đạo
Vô Cực Thánh Linh, Vô Cực Tình

HOA BẢO BÌNH VÀ CƯỜNG ĐỘ ĐẤU TRANH

HOA BẢO BÌNH VÀ CƯỜNG ĐỘ ĐẤU TRANH

Bạn có thể dùng năm vòng tròn của Hoa Bảo Bình để biểu trưng cho chiều dài lịch sử, chiều cao tín ngưỡng, chiều rộng hiểu biết, chiều sâu suy tư, và chiều xa vũ trụ. Một người, một cộng đồng, một công ty, một tổ chức, một quốc gia, một dân tộc, một hệ thống nhà băng toàn cầu, hoặc cả nhân loại đều có thể nhìn vào lịch sử, tín ngưỡng, sự hiểu biết, suy tư, và những hoạt động của chính mình, rồi dùng Hoa Bảo Bình để biết mình đang ở đâu trong sự sinh hoạt của loài người, ngay bây giờ, trên trái đất này.


Mỗi lãnh vực sống, mỗi truyền thống sinh hoạt, là một Hoa Bảo Bình, gồm năm dung độ khác nhau. Bạn hãy dùng nó để thấy được cường độ đấu tranh của Bạn, hoặc của bất cứ ai, dựa trên tầm độ ảnh hưởng, trên các lãnh vực sinh hoạt trong xã hội loài người, của sự hoạt động của Bạn, hoặc của họ. Những hoạt động của Bạn, hay của một tổ chức nào, có đang đóng góp gì vào việc Đánh Giặc Cứu Dân không? Những hoạt động đó, nếu chỉ hoài như vậy, sẽ có thể Thắng Giặc Cứu Nước không?

Mỗi vòng tròn có một vòng đai, và năm vòng tròn có chung một khởi điểm. Khởi điểm này có thể là một ý tưởng trong một câu nói hoặc lời văn, một dấu chấm thật nhỏ trong thời không vô tận. Khởi điểm này cũng có thể là một nền tảng tư tưởng, như một hệ thống lý luận, một học thuyết, một triết thuyết, một đạo sống, hay một tín ngưỡng cao siêu. Nhưng khởi điểm này cũng có thể là một cái gì thật đơn sơ, như tình người, như một niềm tin chân thực đang hiện hữu trong chính Bạn. Bất cứ một sự hiện hữu nào, hữu thể hay vô hình, đều có một khởi điểm. Khả năng sinh tồn của một khởi điểm tới đâu thì tầm độ ảnh hưởng của nó tới đó.

Trong đấu tranh, một tổ chức có thể dùng vòng đai của mỗi vòng tròn để phân nhiệm, tùy theo khả năng và sự tình nguyện của mỗi người. Vòng đai cũng có thể được dùng để bảo mật. Bảo mật sự cẩn trọng trong việc giữ gìn để cho tín liệu không lọt vào tai mắt của những người không có liên quan trách nhiệm và bổn phận trong công tác. Không có sự bảo mật, không thể có tổ chức, nhưng sự bảo mật phải được quy về Trung Ương, nơi tổng kết tín liệu tham mưu và điều hợp quyết định.

Sự xoay chuyển của các vòng đai, theo hay ngược chiều kim đồng hồ, hoặc thuận hay nghịch vòng quay của các thiên thể, biểu trưng cho sự lãnh đạo luân phiên. Một tổ chức mà lãnh đạo, quyền lực chính trị, không trao tay, là một tổ chức chết, không thể thích nghi với những hoàn cảnh hay nghịch cảnh tạo ra bởi thời không. Đây là lý do tại sao một thể chế dân chủ có khả năng tồn tại cùng với thời không, trong khi các chế độ độc tài độc đảng chỉ có được sức mạnh đàn áp người dân một thời mà thôi. Nhưng trong một quốc gia, nếu chỉ có dân chủ mà lại không có một nền văn hóa, một nếp sống chung, thì sự phân hóa sẽ tạo ra nội loạn.

Chiều Dài Lịch Sử và Bài Học Nhân Quả

Lịch sử là gương soi, là những bài học dạy đời. Không biết lịch sử thì không thấy được hậu quả của việc làm. Lịch sử là trí nhớ, là ký ức của con người. Sự nối tiếp một chiều của thời gian trong lịch sử là ngòi bút ghi chép thứ tự của Nhân Quả. Nhân ra sao thì quả như vậy. Trong nhân có Ác Thiện, nhưng quả thì không ác, không thiện, vì quả chỉ là phản ảnh tự nhiên, không do con người chủ động. Cho nên, nhìn quả thì phải biết xét nhân. Trong vũ trụ sống thực, định luật nhân quả bắt đầu và kết thúc với từng con người, rồi sau đó, những hậu quả đó, mới lan dần ra đến xã hội, tạo nên lịch sử.

Chiều Cao Tín Ngưỡng và Mức Độ Ảnh hưởng

Niềm tin trong con người và mức độ ảnh hưởng của nó đi đôi. Niềm tin là nơi nương tựa của lối sống. Tin ra sao thì sống như vậy. Sống ra sao thì ảnh hưởng như vậy. Nhìn vào tín ngưỡng của một người, kể cả chính Bạn và kể cả người không tin gì cả, thì Bạn sẽ thấy được lối sống của mình, hoặc của họ. Mặc dù vậy, tín ngưỡng cũng luôn luôn có giới hạn, vì do con người tự ý tạo ra. Đối tượng của tín ngưỡng có thể là một sự hiện hữu vô hạn vì là siêu nhiên, nhưng cũng có thể là do khả năng tưởng tượng của con người cũng vô hạn, cũng vô biên. Quyền năng tín ngưỡng của con người là một trong những quyền năng tuyệt đối của Quyền Làm Người, nhưng hiệu năng của tín ngưỡng là điều mà chúng ta không thể không xét. Trong đấu tranh, sự ảnh hưởng là tất cả.

Chiều Rộng Hiểu Biết và Sức Sống Đấu Tranh

Trương Chi chỉ biết riêng mình cho nên chỉ có tiếng sáo cho người. Mỵ Nương chỉ biết yêu mình cho nên chỉ có sắc đẹp với đời. Ngược lại, Hán Võ Đế đã chuẩn bị hơn ba mươi năm để đánh bại Tộc Việt, tạo nên lịch sử một ngàn năm Bắc Thuộc. Bạn hãy đọc bài Hịch Tướng Sĩ của Đức Hưng Đạo Đại Vương để thấy rõ mối liên hệ trực tiếp giữa sự hiểu biết và khả năng chiến đấu của mỗi người trong chúng ta, cũng như của cả dân tộc mình. Sự hiểu biết chính mình thường do môi trường cung cấp, nhưng sự hiểu biết về những ai muốn giết hại mình thì chỉ có sự điều nghiên mới có được. Nếu chúng ta chỉ biết cày sâu cuốc bẫm, thì làm sao ta thấy được lằn tên bay? Nếu Bạn chỉ mãi ngắm bờ xôi ruộng mật, thì làm sao Bạn thấy được quân mưu của giặc?

Chiều Sâu Suy Tư và Tâm Lý Con Người

Từ một thường dân cho đến một lãnh tụ, ai ai cũng chỉ là con người, cho nên Quyền Làm Người của mỗi người ngang nhau. Chiều sâu tâm tư của một người là chỗ sâu kín riêng biệt, nhưng cũng lại là yếu điểm quan trọng nhất cần được bảo vệ. Trong suy tư của con người có ước mơ và tính toán. Con người lấy sự tính toán để bảo vệ những ước mơ của mình. Thấy được ước mơ thì hiểu được sự tính toán. Ước mơ càng sâu kín thì sự tính toán càng bí mật. Nhưng khi chúng ta nhìn xét cho kỹ những hậu quả của hành động thì thấy được những ước mơ của con người. Cho nên, muốn thắng người thì trước hết phải cho họ những ước mơ không bao giờ thành tựu được, để sự toan tính của họ bị lệch lạc. Muốn cứu người thì nói ra sự thật, để họ có cơ hội tự cứu lấy chính họ. Nhưng chúng ta không thể nào cứu được người không muốn thấy, không muốn nghe.

Chiều Xa Vũ Trụ và Định Lý Sinh Diệt

Vũ trụ chứa thời không, và trong thời không là định lý Sinh Diệt. Từ vũ trụ vật chất đến vũ trụ siêu hình, có sinh thì có diệt. Chỉ có những gì vượt thời không thì mới thoát được sự sinh diệt. Con người đi tìm sự bất diệt, nhưng cũng chỉ có những gì không được sinh ra mới có thể là bất diệt mà thôi. Một ý niệm vừa dấy lên là một ý niệm vừa mới sinh ra. Một hành động khi đã bắt đầu thì hậu quả cũng từ khoảnh khắc đó mà kết thành. Khi con người chiến đấu vì quyền lực và vật chất, thì chiến thắng và thất bại sinh ra nhau, vì vật chất hữu hạn, trong khi lòng tham muốn thì vô hạn. Sự không biết dừng là mẹ đẻ của thất bại. Khi Bạn chiến đấu vì yêu thương, thì sự yêu thương đó tự nó là chiến thắng, vì yêu thương là sự hằng có. Bạn thử nghĩ, nếu không có yêu thương thì làm sao vũ trụ có được trật tự?

Kết Luận

Hoa Bảo Bình là đóa Hoa chứa đựng những dung độ của Yêu Thương. Yêu thương đến đâu thì cường độ đấu tranh đến đó. Quyết định yêu thương sinh ra sức sống yêu thương và khả năng yêu thương. Khả năng yêu thương là khả năng đấu tranh đó Bạn. Bạn sẵn sàng quyết định chưa? Với nền văn hóa Tiên Rồng, chúng ta có thể cùng nhau thành lập một thể chế Chính Trị Tiên Rồng. Để giữ yên bờ cõi, chúng ta có thể cùng nhau viết ra Binh Thư Tiên Rồng. Để cho dân an nước thịnh, chúng ta có thể cùng nhau xây dựng một nền Kinh Tế Tiên Rồng. Và để cho nhân loại được chung hưởng, chúng ta có thể cùng nhau dựng nên một nền Văn Minh Tiên Rồng. Một Xã Hội Tiên Rồng của người Việt, do người Việt, vì người Việt, và vì nước Việt. Bạn nghĩ sao?

HOA TIÊN RỒNG - TRÁI TIM CỦA TỔ CHỨC

HOA TIÊN RỒNG - TRÁI TIM CỦA TỔ CHỨC

Bốn Cánh của Hoa Tiên Rồng, Thân Trí Tâm Tuệ, khi được áp dụng vào cấu trúc của Tổ Chức Cứu Nước, trở thành Bốn Đấu Trường:

1. Thương Trường: võ học và chiến thuật.
a. Thần khí là nền tảng của võ học.
b. Cạm bẫy là gốc rễ của chiến thuật.

2. Chiến Trường: tham mưu và chiến lược.
a. Tinh biến là thước đo của tham mưu.
b. Sáng tạo là mục tiêu của chiến lược.

3. Tình Trường: văn nghệ và thông tin.
a. Tình người là tâm hồn của văn nghệ.
b. Sự thật là nội dung của thông tin.

4. Chính Trường: chính trị và ngoại giao.
a. Sáng suốt là điều kiện của chính trị.
b. Thành thật là giá trị của ngoại giao.

1. Thương Trường: Thần Khí và Cạm Bẫy

a. Thần Khí

Thần và khí là sức sống phát sinh từ sự song hiệp của lý tính và cảm giác, của tinh thần và thể xác. Thần một khi đã định thì không thể lung lay. Khí một khi đã phát thì khó bề ngăn cản. Thần khí phát sinh từ Âm Dương. Thần có âm thần và dương thần, khí cũng vậy. Thần khí cũng có Chánh Tà. Chánh Tà từ hữu tâm hay vô tâm mà hiện thực. Tâm là nơi chứa của tình. Vô tâm thì vô tình. Người không có tình là kẻ Ác. Cho nên, người chiến sĩ phải biết lấy Niềm Tin Dân Tộc, niềm tin vào Tổ Tiên và lịch sử, để làm thần của mình. Đồng thời, người chiến sĩ phải biết lấy chánh nghĩa, lòng yêu thương toàn dân trong chính mình, để làm nơi chứa khí đấu tranh.

b. Cạm Bẫy

Trong chiến tranh, tất cả là cạm bẫy. Trong chiến thuật, sở thích và thói quen của đối phương là điểm tựa của sự cài đặt, và cũng là hai yếu tố tạo nên mồi nhữ. Sở thích và thói quen phát xuất từ lục căn: tai, mắt, mũi, miệng, thân, và ý. Người chánh lấy lục căn làm phương tiện; kẻ tà lấy lục căn làm cứu cánh. Muốn tránh được cạm bẫy, phải biết tránh né, phải biết chính mình. Muốn đặt được cạm bẫy, phải biết kỹ thuật, phải biết rõ đối phương. Sở thích không ở ngoài cái muốn. Thói quen không ra ngoài cái tự nhiên.

2. Chiến Trường: Tinh Biến và Sáng Tạo

a. Tinh Biến

Sự tinh biến trong chiến đấu là khả năng tiến tới trong nhận thức và quyết định cho những hiện trạng thân cảm, mắt thấy, tai nghe. Phải biết rằng tham, giận, yêu là lý do của chiến tranh, nhưng cũng là những yếu tố chính của kế khích tướng. Người chiến sĩ phải hiểu rõ rằng ước mơ không bao giờ là vũ khí để thắng được giặc. Ngược lại, ước mơ của mình lại thường là phương tiện chiến thắng cho giặc thắng. Trong Binh Thư Yếu Lược, Hưng Đạo Đại Vương dạy rằng do dự là nguồn gốc của sự chiến bại.

b. Sáng Tạo

Sáng tạo là điều kiện của sự chiến thắng. Sáng tạo là khả năng thấy được giới hạn trong tầm nhìn của giặc, từ cấp cá nhân lên đến cấp chỉ huy và lãnh đạo. Sáng tạo là sự thành lập và phát huy được những chương trình ngoài tầm phá của địch. Sự suy nghĩ đến đâu thì khả năng thấy và làm đến đó. Cấu trúc tổ chức ra sao thì hoạt động như vậy. Đánh một người cũng như đánh vạn người, vì căn tính của con người như nhau. Quyết định ra sao thì hậu quả như vậy.

3. Tình Trường: Tình Người và Sự Thật

a. Tình Người

Tình là sự liên hệ giữa con người và tất cả. Sự tạo thành hoặc tiêu hủy những mối liên hệ bắt nguồn từ sâu trong tim của mỗi người. Đây là một quyền năng bất khả diệt, là nền tảng của Quyền Làm Người.

Quyết định yêu thương của người chiến sĩ phải luôn luôn được khởi nguồn từ trách nhiệm và bổn phận đối với toàn dân. Người chiến sĩ trong tình trường sống với lòng yêu thương Tổ Quốc và toàn dân.

Mỗi ngọn cỏ, mỗi cành cây tấc đất, đều thắm đượm máu xương tiền bối.
Từng câu ca, từng nếp sống lời khuyên, nặng công trình tim óc mẹ cha.

Ân đức Tiền Nhân trùm khắp.
Công ơn Hiển Tổ cao dày. 
(Chúc Văn Lễ Tế Tổ, Thầy Vinh Đức)


b. Sự Thật

Sự thật đơn sơ như sự hiện hữu của Đất Trời. Cổ văn có viết: Trời lấy trống không làm Đạo. Đất lấy yên lặng làm Đạo. Trong sự trống không và yên lặng của đất trời, sự thật về con người mãi mãi tồn tại trong thời gian và không gian bất tận. Sự thật hiện hữu tự nhiên, như sự hiện hữu của từng người: thân xác, lý trí, yêu thương và hiểu biết.

4. Chính Trường: Sáng Suốt và Thành Thật

a. Sáng Suốt

Nơi chính trường có sáng có tối. Trong ánh sáng hoặc trong bóng tối, mỗi chính sĩ phải biết sáng suốt. Sự sáng suốt là khả năng đánh giá và tinh lọc tín liệu. Ai cũng thích nói, và ai ai cũng biết làm, nhưng biết phải nói gì, làm gì, với ai, ở đâu và lúc nào, là những điều kiện định đoạt sự thành công hoặc thất bại nơi chính trường. Tinh thần lớn như trái đất thì mới chứa được cái mạnh của biển cả. Tâm hồn lớn như vũ trụ thì mới chứa được sức sống mặt trời.

b. Thành Thật

Không biết thì nói là không biết, rồi cố gắng học hỏi để được biết. Không hiểu thì nói là không hiểu, rồi cố gắng suy nghĩ để hiểu. Không nghe thấy thì nói rằng không nghe thấy, rồi cố gắng nghe, cố gắng thấy. Không thể nói thì nói là không thể nói, đừng bịa đặt, vì sự bịa đặt làm mất niềm tin.

Chuyện nhỏ đừng xé to. Chuyện lớn đừng coi thường. Chuyện nhỏ mà xé ra cho to là vì tự ái. Tự ái làm mình mù quáng. Chuyện lớn mà lại coi thường là vì lòng si mê. Lòng si mê làm mình quên lối trở về. Không biết phận, không biết giới hạn của mình là Tham. Tham: thì dễ lọt vào Cạm Bẫy.!!!

CÁI DỤNG CỦA HOA SONG HIỆP

CÁI DỤNG CỦA HOA SONG HIỆP 

Tình Báo và Hành Động

Hoa Song Hiệp, Hoa Tiên Rồng, và Hoa Bảo Bình là những mô thức cho việc hình thành một tổ chức, trong thế tĩnh cũng như thế động, cho thời bình cũng như thời loạn.

Trong đại cuộc cứu dân cứu nước, chúng ta luôn luôn lấy sự thật, được biểu trưng bằng vòng ngoài cùng của các Hoa, và toàn dân, được biểu trưng bằng vòng kế tiếp, để làm nền tảng. Từ toàn dân mà chúng ta có được sự thật.

Hoa Song Hiệp, với hai vòng Tiên và Rồng, là cấu trúc căn bản của một tổ chức. Song, sự đi đôi của Tiên Rồng, là nền tảng hành động của tổ chức. Hiệp, hai vòng Tiên Rồng giao nhau tại tâm điểm, tượng trưng cho sự kết hiệp của tình báo và hành động.



Tình báo là việc báo cáo trước khi hành động, đang khi hành động, và sau khi hành động. Hành động phải luôn luôn được đặt trên nền tảng của tình báo.

Trong tình báo, phần tiên của một tổ chức đấu tranh, sự thật luôn luôn từ toàn dân mà hiện hữu. Cho nên, ai được dân thương thì thắng; ai bị dân bỏ thì thua. Trong hành động, phần rồng, tình báo rõ ràng và chính xác tới đâu thì tổ chức thành công đến đó.

Tiên đi trước rồng vì sự hiểu biết luôn luôn quan trọng hơn hành động. Cánh tình báo chỉ có một công tác là nghe ngóng và báo cáo, còn phân tích và quyết định là việc của trung ương.

Khi chạm trán với giặc, các nguyên tắc hành động của cánh tình báo là sự không nghe, không biết, và không thấy. Đối phương không nghe đến mình, không biết đến mình, và không thấy được mình.

Đừng nói động tới quyền, lợi, và danh của họ thì họ sẽ không nghe đến mình. Không có hành động gì khác với một người dân thật bình thường thì họ sẽ không biết đến mình. Không ăn mặc khác thường đối với những người chung quanh thì họ sẽ không thấy được mình.

Khoa Học Phân Tích Tình Báo

Cuốn sách Kỹ Thuật Phân Tích theo Khuôn Mẫu (Richards J. Heuer and Randolp H. Pherson, Structured Analytic Techniques. Kindle, 2015) giúp cho chúng ta thấy được cách suy nghĩ theo thói quen khác biệt với sự phân tích bằng khoa học ra sao, nhất là trong khoa học phân tích tình báo của Hoa Kỳ hiện nay.

Khoa học này khởi đầu vào khoảng năm 1980 và được Cộng Đồng Tình Báo Hoa Kỳ (US Intelligence Community) chính thức áp dụng sau sự thất bại của khối tình báo chiến lược quốc gia của Hoa Kỳ vào năm 2002.

Sự phân tích tình báo theo cách suy nghĩ thông thường đã tạo ra những sai lầm lớn, và những sai lầm lớn đó đã tạo ra cuộc Chiến Tranh Iraq năm 2003.

Từ xưa đến nay, con người thường phân tích mọi việc, mọi chuyện theo thói quen.

Một là vì chúng ta chỉ phân tích sự việc bằng cách đặt trọng tâm vào những sự kiện đang xảy ra trong hiện tại (Situational Logic), cho nên không có thể rút tỉa được những bài học đã có sẵn từ những kinh nghiệm chung.

Hai là chúng ta dùng những bài học rút từ lịch sử để nhận định, phân tích và đi đến kết luận cho những sự kiện đang xảy ra trong hiện tại.

Cách suy nghĩ này thường dựa trên những sự so sánh không xác thực vì sự khác biệt trong thời gian và không gian, hoàn cảnh xã hội, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự hiểu biết chung của con người lúc trước và bây giờ. Ba là chúng ta dựa vào những lý thuyết tổng quan để nhận định và kết luận.

Những nhận định tổng quát thường loại bỏ những dữ kiện có vẻ không thích hợp với những định kiến sẵn có trong chúng ta. Ba cách nhận diện, phân tích và kết luận này rất thích hợp cho đời sống thường ngày. Đây là sự hoạt động tự nhiên của bộ óc con người, không ai có thể tránh được.

Khoa học phân tích tình báo quốc gia của Hoa Kỳ hiện nay được đặt trên những khuôn mẫu mà sự suy nghĩ của người phân tích được ghi ra rõ rệt.

Những phương thức này giúp cho các nhà phân tích có thể làm việc chung và cùng lúc tránh được sự va chạm tự ái của mỗi người. Sự suy nghĩ theo cách thông thường luôn luôn được đặt trên những giả định (giả thuyết và định kiến) sẵn có trong mỗi người.

Những giả định riêng tư đó dường như không có gì có thể lay chuyển được, vì vậy cho nên nếu chúng ta chỉ dùng cách suy nghĩ thường ngày để suy tính việc nước thì quả thật là chúng ta đang mắc phải một lỗi lầm rất lớn.

Khi suy nghĩ theo cách bình thường, chúng ta chỉ đi tìm, chỉ nhìn, chỉ nhận diện, và chỉ tin vào những sự kiện nào giúp cho chúng ta củng cố những định kiến sẵn có kia.

Cho nên, Kỹ Thuật Phân Tích theo Khuôn Mẫu (Heuer and Pherson 2015) giúp cho người phân tích và các cộng sự viên nhận diện rõ rệt giá trị của những giả định trong chính mình và trong mọi người.

Hai nguyên tắc nền tảng của sự phân tích trong khoa học là (1) lập ra nhiều giả thuyết khác hẵn nhau, và (2) tìm cho ra mọi dữ kiện nào, thực tế hoặc giả định, có thể chứng minh được cái sai của mỗi giả thuyết.

Giả thuyết nào mà bạn không thể chứng minh là sai hoặc ít sai nhất là giả thuyết quan trọng nhất mà bạn cần phải tích cực theo dõi và nghiên cứu thêm.

Tóm lại, khoa học phân tích giúp cho mỗi người tìm thấy được những cái sai của mình, vì theo thói tự nhiên thì ai ai cũng luôn luôn tự thấy mình là đúng.

Suy Xét và Phân Tích

Khi suy nghĩ, Bạn nên đặt ít nhất bốn vấn đề:

1. Nếu mình đúng, thì mình đúng ra sao?

2. Nếu mình sai, thì mình sai ra sao?

3. Nếu mình đang bị lừa thì mình đang bị lừa ra sao?

4. Nếu sự việc xảy ra như Bạn đã dự đoán, thì sau đó nữa, những gì sẽ xảy ra?

Đặt vấn đề với:

1. Bất cứ người nào

2. Bất cứ đề tài nào

3. Bất cứ giả thuyết nào

4. Bất cứ sự việc gì

5. Bất cứ kết luận nào, kể cả sự tổng kết

6. Cả chính mình, vì mình cũng có thể đang tự lừa dối mình.

Tình Báo Cách Mệnh (Revolutionary Intelligence): Bạn phải luôn luôn sẵn sàng thay đổi hoàn toàn cách nhìn của mình theo chứng cứ, chứ không coi thường hoặc vứt bỏ giá trị của bằng chứng (mặc dù có thể là nhỏ nhoi) để ôm giữ cái đúng của mình, vì sự ôm giữ cái đúng của riêng mình luôn luôn là điểm tựa vững chắc nhất để đối phương dựa vào để đồng hành, khuyến khích, dẫn dắt và lừa gạt Bạn.

Phân tích mỗi mảnh bằng chứng (bất kể lớn nhỏ, nhiều ít), mỗi giả thuyết một cách riêng biệt. Cách phân tích phải bao gồm các cái nhìn từ mọi khía cạnh, góc độ, và đối tượng. Các giả thuyết phải có khả năng loại trừ nhau (mutually exclusive).

Mục đích tối hậu là tìm cho ra những cái sai trong sự suy nghĩ của chính mình. Cái sai thường bắt đầu với những giả định khởi nguồn từ sâu trong tâm hồn của mỗi người, nhất là những niềm tin không dựa trên chứng cớ và sự thực.

Mỗi lần có một mảnh tin đến, chúng ta thường định nghĩa và ráp nối mảnh tin đó với những cảm tính hoặc định kiến sẵn có, nhất là những ảo tưởng về giá trị và khả năng của chính mình. Làm như vậy cũng giống như là chúng ta ăn một vật gì, mang một cái gì hoặc một người lạ vào nhà mà không biết vật đó, cái đó thực sự là gì, hoặc người đó thực sự là ai. Truyền Kỳ Mỵ Châu đã dạy về bài học này rất rõ. An Dương Vương đã đưa giặc vào nhà để cầu hòa và Mỵ Châu cũng đã lấy giặc làm chồng.

Liên Minh Tình Báo

Mọi người, mọi tổ chức phải chú trọng đến việc làm sao chúng ta có được một liên minh tình báo.

Các liên minh tình báo giữa các quốc gia trên thế giới giúp nhau giải quyết mọi vấn đề về kỹ thuật và phương pháp để cô lập, vô hiệu hoá, lợi dụng, hoặc triệt tiêu đối phương, bất kể đối phương là ai, từ cấp cá nhân riêng lẻ lên đến các khối quyền lực có sức ảnh hưởng vượt lên trên và ra ngoài sức mạnh của các liên minh cấp quốc tế. Không ai có thể thoát khỏi chiến tranh tình báo.

Chiến tranh tình báo là chiến tranh muôn thuở (eternal warfare), không ranh giới, không hạn chế và vượt thời gian và không gian (thời không).

Tình báo không dựa vào sự tin tưởng mà dựa vào sự hữu hiệu của tín liệu. Trong một liên minh tình báo, mọi tín liệu phải được tinh lọc và trao đổi theo các sơ đồ của Hoa Song Hiệp (HSH), Hoa Tiên Rồng (HTR), và Hoa Bảo Bình (HBB).

Một chuyên viên tình báo phải thấy được sự cân bằng tín liệu khi trao đổi, qua cái dụng của HSH; phải hình dung được sự cân bằng giá trị của các loại tình báo khác nhau bằng cấu trúc tổ chức của HTR; và phải biết dùng HBB để thấy rõ giới hạn của giá trị tình báo tùy theo mức độ khả tín và tầm độ ảnh hưởng của từng mảnh tin và sự giới hạn của từng mảnh tin đó trong thời không. Sự trao đổi tín liệu phải cân được nhau trong giá trị và ảnh hưởng.

Đối với giặc, chỉ có sự giả dối và lừa gạt mà giặc không thể ngờ được. Đối với bạn, chỉ được có sự thật tuyệt đối với nhau mà thôi.


Người Việt có thể tự ai nấy làm như hiện nay, vì làm vậy là sướng nhất, nhưng nếu chúng ta không có một liên minh tình báo, từ sự giao tiếp giữa các cá nhân nơi một địa phương nhất định lên đến cấp toàn cầu, thì mọi hành động đấu tranh đánh giặc để cứu dân cứu nước đều là sự tự sát.

Muốn có một liên minh, trước đó phải có các chuyên viên tình báo trong mọi tổ chức, rồi chuyên viên của các tổ chức phải tìm được nhau.

Ở cấp địa phương, phải biết cách bảo mật nào vừa giúp ta an toàn và vừa giúp ta thành lập cho được các liên minh.

Ở cấp toàn cầu, không đạt tới thuyết thì không thể thấy được các hệ thống quyền lực trên trái đất đang làm gì, vì mọi suy tư và hành động của bất cứ ai hoặc một hệ thống nào cũng đều được đặt trên hoặc dựa vào một hệ tư tưởng hoặc sự ráp nối tùm lum, tà la nhiều hệ tư tưởng của những kẻ rối trí.

Trong hệ thống tình báo cũng phải có hệ thống phản gián. Cách tìm ra gián điệp trong tổ chức của mình thì phải có mồi nhử, cạm bẫy, kiểm soát và săn lùng. Cách tìm ra các chuyên viên tình báo trong hàng ngũ của giặc thì phải biết chú ý tới khả năng cân nhắc giá trị của từng chữ và từng câu nói của họ, lúc hỏi cũng như lúc đáp.

Không có tình báo và phản gián thì mọi nổ lực đấu tranh đều là vô ích. Không có một liên minh tình báo thì mọi tổ chức đấu tranh chắc chắn phải thất bại.

Phản Gián Công, Phản Gián Thủ

Vũ khí lợi hại nhất của tình báo là sự phản trá, có nghĩa là giả trá và phản bội. Trong tình báo có điệp báo (intelligence) và phản gián (counterintelligence). Điệp báo là việc thu thập tin tức bằng mọi phương tiện, dưới mọi hình thức.

Tích cực, cho thấy cái giả, hoặc tiêu cực, che giấu cái thật, hoạt động của điệp báo mang tính cách âm thầm và bí mật. Mục tiêu của điệp báo là sự xâm nhập vào hệ thống thần kinh của đối phương để nghe ngóng, xem xét, tìm hiểu và báo cáo.

Phản gián là cốt lõi, là tinh anh của tình báo. Ngoài sự phản bội, vũ khí của phản gián còn là sự trí trá, là sự giả hình, giả lời, giả tình và giả nghĩa.

Khả năng phản gián cấp chiến thuật nơi từng địa phương khi đã được đồng bộ hóa với phản gián cấp chiến lược của quốc gia thì có thể che mắt, bịt tai, lừa gạt và làm loạn tâm trí của mọi đối thủ, từ từng cá nhân lên đến mọi hệ thống tình báo chiến lược cấp quốc tế.

Trong phản gián có phản gián công và phản gián thủ. Phản gián thủ lo việc cài bẫy để vô hiệu hóa những hoạt động của tình báo đối phương, còn phản gián công thì lo việc dụ dỗ, cảm hóa, hướng dẫn và tiêu diệt mọi đối thủ.

Phản gián thủ hoạt động để bảo vệ khối tình báo và an ninh của bên mình, còn phản gián công thì hoạt động để lợi dụng hoặc tiêu diệt đối phương bằng mọi thủ đoạn và mánh khóe trong mọi sinh hoạt con người từ cấp cá nhân đến tập thể.

*Tinh hoa của phản gián là MẬT SÁT.

Sự Che Giấu và Lừa Gạt (Denial and Deception / D & D)

Kỹ thuật Che Giấu và Lừa Gạt (CG & LG) là vũ khí chuyên môn trong chiến tranh tình báo. Môn võ này khi hiện ra bên ngoài thì là chiến tranh tâm lý hoặc tâm lý chiến.

Mục tiêu của tâm lý chiến là làm tăng trưởng sự sợ hãi hoặc làm thoả mãn những mong muốn sâu kín trong tâm tư của đối tượng. Ví dụ, trong chiến tranh tâm lý có chiến tranh tuyên truyền.

Mục tiêu của chiến tranh tuyên truyền là làm cho đối tượng si mê với ước mơ mà quên đi thực tại. Những ước mơ đó thường được bên đang lừa gạt tạo nên bằng môi trường, hình ảnh, âm thanh, mùi vị và chữ nghĩa tác động và kích thích trí tưởng tượng của bên đang bị gạt về một thực tại coi như là hiển nhiên hay một tương lai dường như sắp đến hoặc tự nhiên sẽ đến. CG & LG làm cho sự tưởng tượng của đối phương trực tiếp ảnh hưởng những ước mong hoặc sự sợ hãi sẵn có trong tim óc họ.

Như Triệu Đà gạt An Dương Vương và Trọng Thủy lừa gạt Mỵ Châu, cái hay của sự CG & LG là làm cho đối tượng bị ảnh hưởng đến mức sự quyết định và hành động của họ xảy ra đúng như ý muốn của kẻ đang lừa gạt họ mà họ không hề hay biết.

Điều nguy hiểm nhất về sự CG & LG là khi một hoặc nhiều người đang tự CG & LG chính mình và lẫn nhau nhiều và thường xuyên đến mức không còn ai biết đâu là sự thật. Cuối cùng là họ tự trói buộc họ, để rồi họ tự hại chính mình và hại luôn nhau.

Ở mọi thời không và cấp độ sinh hoạt, nhất là hôm nay khi tin liệu bao trùm trái đất, con người vẫn thường thích CG & LG nhau.

Gián Điệp Nhị Trùng

Vua Quang Trung có lần viết trong Hịch: 'Các ngươi đừng giở thói hai lòng, bằng không ta sẽ giết.' Lúc đó, Ngài đang nói về gián điệp nhị trùng.

Gián điệp nhị trùng là vũ khí lợi hại nhất trong chiến tranh, là loại gián điệp "Đồng Sàn Dị Mộng." Họ làm việc, nhận lương bổng của cả hai bên, ăn nằm với cả hai bên nhưng chỉ thực sự trung thành với một bên mà thôi.

Công tác của gián điệp nhị trùng là sự báo cáo sự thật từ những nơi sâu kín nhất của hệ thống tình báo đối phương, với mục tiêu quan trọng nhất là sự suy nghĩ của những người trong hệ thống trung ương, lãnh đạo tối cao của đối thủ. Mọi việc khác thì hệ thống tình báo và phản gián phe bạn phải hổ trợ, lo toan .

Để đối phương tin vào gián điệp nhị trùng mà hệ thống tình báo đã cài vào, bên tấn công phải tìm mọi cách để "Thả Tép Bắt Tôm," tức là làm sao cho gián điệp nhị trùng của mình cuối cùng được trở nên gián điệp mà đối phương tin dùng nhất.

Trọng Thủy là một loại gián điệp nhị trùng. Điều khác biệt là An Dương Vương và Mỵ Châu tự rước giặc vào nhà và nhận giặc làm con, làm chồng.

Gián điệp nhị trùng là loại gián điệp khó bị khám phá nhất, vì họ luôn luôn chỉ bộc lộ những gì có lợi cho bên mà họ đang đối diện.

Xưa kia, nhà Thương thắng nhà Hạ, rồi mấy trăm năm sau đó nhà Chu thắng nhà Thương, yếu tố mấu chốt vẫn là người trong hệ thống gián điệp của đối thủ bỏ bên kia để về với bên này.

Mặc dù vậy, vẫn có loại gián điệp tam trùng, tứ trùng, tức là loại người lúc nào cũng đang phản bội.

Gián điệp nhị trùng "Bất Đắc Kỳ Tử" nên dễ đổi dạ thay lòng. Tôn Tử có nói "Chỉ có bậc Thánh Trí mới dùng dược gián điệp" là vậy.

Loại người hai lòng thường có những đặc tính như sau:

1. Ham thích tiền của và danh vọng

2. Tự cao tự đại

3. Ỷ lại khoe khoang

4. Hơn thua ganh tị

Trung Ương Tình Báo

Sức mạnh của một hệ thống tình báo là do sự kết hiệp chặt chẽ và mật thiết giữa địa phương và trung ương. Trung ương lo việc nghiên cứu, địa phương lo việc chiến đấu. Bổn phận của một trung ương tình báo là sự thanh lọc và phân tích tín liệu.

Theo hệ thống tổ chức kim tự tháp thì trung ương ra lệnh và chỉ huy, nhưng theo hệ thống tổ chức Trọng Tâm Mạng Lưới thì trung ương lo việc điều hiệp lòng người và điều hành công việc, sao cho thật hữu hiệu.

Đây là mấu chốt cực kỳ quan trọng. Cũng như trong Truyền Kỳ Phù Đổng, khi Phù Đổng/lòng dân đã trỗi dậy thì trọng tâm của cuộc chiến là Phù Đổng/tiền tuyến, không phải trung ương, nhất là một trung ương tình báo.

Lý do là ở nơi một chiến tuyến đang nóng bỏng, thì sự an nguy của từng chiến sĩ và từng người dân đang yểm trợ cho họ là quan trọng nhất.

Người ở tiền tuyến luôn luôn phải được có quyền năng tự quyết. Ở nơi chiến tuyến, người dân phải lo việc sinh tồn và chiến thắng, còn hệ thống tình báo phải lo chu toàn việc bảo vệ và yểm trợ cho dân.

Trung ương và tiền tuyến phải trở nên như một. Muốn cho bất cứ sự việc gì được thành công một cách mỹ mãn nhất thì phải "Muôn Người Như Một." Hiểu theo truyền thống đấu tranh của Dân Tộc ta thì đó là "Trăm Con Một Bọc," cùng Mẹ là Tiên, cùng Cha là Rồng, sinh ra cùng một lúc, giống nhau như đúc về mọi mặt.

Nếu chúng ta sống, cư xử, làm việc, và sinh hoạt với nhau như vậy, thì tình báo giặc mới không xen kẽ vào được. Phải biết bảo mật cho chiến sĩ và người dân như bảo mật cho chính mình vậy. Sự bảo mật có hai mặt: bảo mật suy tư và bảo mật hành động. Bảo mật suy tư thì không để hiện ra trong lời nói hoặc tinh thần. Bảo mật hành động thì việc gì cũng chỉ có một người biết mà thôi.

Việc gì cũng chỉ có một người trực tiếp liên hệ đến việc chu toàn sứ mệnh mới được biết. Sự bảo mật có liên quan trực tiếp với sự bảo toàn mạng sống của từng người. Vì vậy, trong hoạt động tình báo, mọi người chỉ thấy được sự việc sau khi nó đã xảy ra, thấy rõ ảnh hưởng và hậu quả của nó, chứ không biết được người làm là ai.

Theo người bàng quan thì những sự kiện đó dường như "tự nhiên như vậy," hoặc là "quả báo nhãn tiền." Người Nhật thường gọi các chuyên viên tình báo của họ là Nhẫn Gia (Ninja).

Năm Loại Tình Báo

Có năm loại tình báo:

1. Đo Lường và Ký Hiệu (MASINT): Đo lường một sự hiện hữu hay hoạt động nào cho đến khi chu kỳ tiến trình, tức ký hiệu của nó, hiện ra trong đời sống thường ngày hoặc trong những làn sóng của giòng quang phổ điện từ (electromagnetic spectrum).

Đo lường sức người thì dùng thời gian. Đo lường trí người thì nhìn hành động. Đo lường lòng người thì nhìn hậu quả của việc họ làm. Đo lường chiến lược và chiến thuật hoặc trận đồ của giặc thì dùng không gian. Đo lường người và hoạt động của giặc mà không để cho giặc do lường được mình và việc mình làm là nền tảng của sự bảo mật.

2. Hình Ảnh (IMINT): hình chụp và hình quay trong giòng quang phổ điện từ. Một chuyên viên tình báo cũng phải biết chụp hình và quay phim bằng thần trí của mình.

Phải luyện tập sự nhận xét và báo cáo trung thực, ngắn gọn, chính xác, và rõ ràng về con người và sự kiện cùng với sự ghi chép về thời gian và không gian nhất định.

Bản báo cáo phải trung thực như phim ảnh tự nhiên vậy, không thêu dệt, không thêm bớt.

3. Tín Hiệu (SIGINT): Trong Tín Hiệu có (1) Liên Lạc (COMINT) bình thường hoặc bằng mật khẩu/mật hiệu; và (2) Tin Điện (ELINT), là mật mã trong giòng quang phổ điện từ.

Mục tiêu tối hậu của hoạt động này là sự biết cho thấu hệ thống liên lạc của giặc, nhất là những liên lạc bí mật.

Tình báo tín hiệu cho ta thấy được giặc đang đặt niềm tin vào ai, về việc gì, hoặc họ đang suy nghĩ những gì, đang tính toán, chuẩn bị những sự việc gì và cấu trúc tổ chức của họ ra sao.

Một điều phải cảnh giác là các hệ thống phản gián cũng thường tạo ra những cơ quan và hệ thống liên lạc "bí mật" để lừa gạt tình báo của đối phương.

4. Nguồn Tin Mở (OSINT): bất cứ loại tài liệu nào có thể khai thác được mà không cần đến những hoạt động bí mật. Tám mươi phần trăm (80%) của tín liệu tình báo là từ những nguồn tin mở.

Trong công việc thu tin giữa người và người, cách đặt câu hỏi là một công tác cần sự nghiên cứu để hiểu biết về đối tượng và phương thức hỏi đáp nào có hiệu quả nhất đối với đối tượng đó.

Việc đặt câu hỏi có hai cách: (1) chọn người cho đúng và (2) lựa nơi, lựa lời, lựa lúc, lựa phương tiện và phương thức.

Phải chọn người nào biết rõ điều mình muốn biết, chọn cách tiếp cận (luôn luôn phải có lễ phép), lựa lời ra sao, lúc nào, để họ có thể cho mình biết những điều họ biết một cách an toàn cho họ và cho mình.

Trong những môi trường và hoàn cảnh thích hợp cho sự trao đổi, ai giỏi về điều gì thì họ sẽ tự nhiên nói về điều đó. Tình báo viên là người biết "nghe mười hỏi một."

Có một cách thu tin mà tình báo Trung Quốc thường dùng. Họ gọi nó là "Hàng Ngàn Hạt Cát." Hoạt động này tương tự như kiến tha mồi. Ví dụ, muốn biết mười điều từ một người thì có mười người hỏi, và mỗi người dấu câu hỏi của mình trong mười câu nói.

5. Nhân Liệu (HUMINT): tín liệu từ người mà có. Hoạt động này khó khăn và nguy hiểm nhất trong các loại tình báo. Việc cài người vào hàng ngũ hoặc tổ chức của giặc cần có thời gian và những điều kiện cần thiết.

Việc đi tìm người hiền trong hàng ngũ của giặc luôn luôn phải được nghiên cứu tường tận nhất. Tóm lại, có hai loại người, loại người trung tín và loại người phản bội. Lòng trung tín hoặc phản bội là một quyền năng tuyệt đối trong con người, cho nên hai loại người này tự họ muốn sống như vậy, không thể huấn luyện hoặc mua chuộc để cho họ khác đi được.

Người thích sống bằng lòng trung tín thì mình giữ bên trong, chuyên lo việc phản gián. Người giỏi sống bằng sự phản bội thì cho họ hoạt động bên ngoài, ngay giữa lòng địch.

Câu "Dụng nhân như dụng mộc" áp dụng vào tình báo là thích hợp nhất. Cây sống thì vun tưới. Cây khô thì dùng làm nhà, làm chòi, làm củi.

Trong thế giới tư bản, người Anh dùng gián điệp nhị trùng giỏi nhất. Trong thế giới cộng sản, Nga Cộng dùng mật sát giỏi nhất.

Từ thập niên 70 đến nay, theo chính quyền Hoa Kỳ thì Trung Cộng ăn cắp bí mật quốc gia của người Mỹ nhiều nhất, kể cả những họa đồ và phương thức chế tạo những hỏa tiển và bom đạn nguyên tử có sức phá mạnh nhất (1999 Cox Report, U.S. House of Representatives, Select Committee).

Khoảng Trống Tình Báo và Câu Hỏi Tình Báo

Khoảng Trống Tình Báo (intelligence gap) và Câu Hỏi Tình Báo (intelligence question) là hai yếu tố được dùng khi chúng ta muốn khởi sự một hoạt động tình báo.

Khoảng trống tình báo là khoảng trống của sự hiểu của chúng ta về một người hoặc một nhóm người nào, vật gì, việc gì, hoặc hoạt động nào của ai đó.

Câu hỏi tình báo là then chốt giá trị cho kết quả của sự thu thập tin liệu. Một câu hỏi đơn sơ sẽ có một câu trả lời đơn sơ. Ngược lại, một câu hỏi phức tạp sẽ có một câu trả lời phức tạp. Vì vậy, câu hỏi và câu trả lời phản ảnh giá trị của nhau.

Một khi trung ương đã định được khoảng trống trong sự hiểu biết thì câu hỏi phải được đặt ra một cách thật đơn sơ và rõ rệt, để người thu tin biết thật rõ là họ phải làm sao để đạt cho bằng được mục tiêu tin liệu một cách thật chính xác.

Cho nên, công việc nhận định khoảng trống tình báo và sự đặt câu hỏi tình báo đòi hỏi việc nghiên cứu tường tận vì hoạt động tình báo đòi hỏi rất nhiều công phu và nhẫn nại của khối thu tin. Hơn nữa, trong nhân liệu cũng như vật liệu, các nhu liệu tình báo luôn luôn có giới hạn.

Tình Báo Nguyên Nghĩa/Rõ và Tình Báo Không Nguyên Nghĩa/Mờ (Literal and Non-literal)

Tình báo nguyên nghĩa là loại tin liệu có ý nghĩa rõ rệt mà không cần đến sự phân tích của chuyên viên.

Tình báo không nguyên nghĩa thì một người bình thường nhìn vào hoặc lắng nghe thì thấy mù mờ cho nên cần phải có chuyên viên thông dịch hoặc giải thích giùm. Tin liệu nào cũng có mặt trái, mặt phải, và nghĩa đen hoặc nghĩa bóng.

Về mặt thông dịch tình báo, khả năng hiểu biết của thông dịch viên về văn hóa, lịch sử, phong tục, tập quán, và đặt biệt là cách nhìn của một dân tộc, một quốc gia, một địa phương, một tổ chức, một nhóm người, hay của một người đều có ảnh hưởng trực tiếp tới sự thông dịch chính xác hay không chính xác tin liệu.

Sự nghiên cứu về mật mã, mật khẩu, hoặc mật hiệu đòi hỏi một cơ quan tình báo phải có người bên trong khối tình báo của đối phương.

Tình Báo và Thiền học: Một sự Trùng Hợp Ngẫu Nhiên

Có một điều rất lạ là sự trùng hợp giữa khoa học tình báo của phương Tây và thiền học của phương đông. Dường như cái nhìn của phương Tây về sự Khách Quan (objectivity) đồng nghĩa với cái nhìn về sự Giác Ngộ của phương Đông (enlightenment).

Trong khoa học tình báo, muốn có được sự thật, chúng ta cần phải có sự khách quan trong cách nhìn và cách phân tích. Sự khách quan này đòi hỏi chúng ta phải nhận diện mọi giả thuyết mà chúng ta đang có và tỏ bày những giả định đó ra nơi ánh sáng để mọi người cùng nhau nhận định và suy xét, để coi xem những giả thuyết đó đúng sai ra sao. Hơn nữa, sự khách quan cũng đòi hỏi chúng ta phải thấy được cái nhìn riêng biệt của từng đơn vị nhân sinh.

Trong thiền học, bản ngã là nguồn gốc của định kiến và định kiến là nguồn gốc của sự sai lầm. Một người không chịu để ai khác có những nhận định khoa học và khách quan về những định kiến của mình là một con người cố chấp. Sự cố chấp làm cho con người trở nên độc đoán. Người độc đoán khi có quyền lực thì trở nên độc tài. Một dân tộc, một quốc gia, một đảng phái, một tổ chức, một đoàn thể, hay một gia tộc nào cũng vậy.

Dường như khoa học tình báo và thiền học đều muốn đưa loài người vào một cuộc khám phá chung, một hành trình sống động và hiện thực liên tục của con người và xã hội loài người trên trái đất và trong vũ trụ vô cùng tận này.

Tình Báo và Toàn Dân

Trong hành động, phần rồng của một tổ chức, mỗi người chiến sĩ phải biết lấy sinh mạng của mình để làm gốc.

Không phải vì chúng ta sợ chết hay sợ bị giết, mà sợ rằng chúng ta không chu toàn được sứ mệnh, chúng ta không thành công trong việc thắng được giặc, mà thôi.

Làm rồng, khi tịnh thì nằm yên, sâu thẳm trong lòng của biển. Biển là biểu tượng cho sức sống của toàn dân. Có nghĩa là trước nhất chúng ta phải biết sống như một người dân bình thường, sống với những nỗi đau của dân, và sống với những nỗi khổ của dân, cùng chia sẻ những nỗi vui buồn của dân.

Khi người dân bắt đầu chia sẻ cuộc sống của họ cùng Bạn, thì các mối liên hệ cần thiết cho cuộc đấu tranh sẽ bắt đầu.

Khi Phù Đổng bật nói thì tổ chức phải bắt đầu nghe dân và làm theo ý dân. Đây là phần động của rồng. Muốn thắng giặc thì phải biết nghe dân.

Mỗi lần Bạn nghe hoặc thấy hình ảnh của một người dân đang đau, bạn hãy biết đau.

Vì trong tình nghĩa của Một Bọc Trăm Con, của Đồng Bào ruột thịt, đó chính là ông, là bà của Bạn, là cha, là mẹ của bạn, là cô cậu, là dì dượng, là chú thím, là bác của Bạn, là anh, là chị, là em, là cháu, chắt của Bạn.

Yêu Thương là nơi giặc thù coi là Hư, Bạn hãy Tranh ở đó.
Chia Sẻ là nơi kẻ ác Không Canh Gác, Bạn hãy Chiếm Giữ nó.

Việc Binh chính là sự BÊNH VỰC đó, Bạn có biết không?

THẾ ĐỘNG CỦA HOA TIÊN RỒNG


THẾ ĐỘNG CỦA HOA TIÊN RỒNG

Trong Học Thuyết Tiên Rồng, chúng ta có ba đóa Hoa: Hoa Song Hiệp, Hoa Tiên Rồng, và Hoa Bảo Bình. Nhìn vào Hoa Song Hiệp và Hoa Bảo Bình, trên bình diện sinh hoạt xã hội, chúng ta có thể nhìn vòng ngoài cùng, vòng lớn nhất của hai Hoa này, là sự biểu trưng cho Chân Lý của Sự Thật. Kế đến là vòng đại chúng, tượng trưng cho Xã Hội Loài Người, mà trong đó có ta.

Hoa Song Hiệp: Sự Qua Lại


Vòng Tiên, bên trái, tượng trưng cho những gì trường kỳ, bao gồm những dữ kiện hiện hữu dọc theo chiều dài của thời gian. Vòng Rồng, bên phải, tượng trưng cho những gì ngắn hạn, bao gồm những dữ kiện hiện hữu trong chiều rộng của không gian nhất định.

Trong đấu tranh tư tưởng hoặc hành động, vòng Tiên là Thế, vòng Rồng là Dụng. Thế có thể chuyển đổi tùy theo sự động tĩnh của đối phương, nhưng luôn luôn được nhắm vào mục tiêu là đạt sự thượng ưu, tức là sự chủ động, không để cho mình bị động. Mục tiêu của Dụng là sự đạt được hậu quả mà mình đã nhắm vào, để ảnh hưởng được thực trạng theo ý muốn của mình.

Một ý tưởng, khi bộc lộ ra nơi hình hài, ánh mắt, âm thanh, cử chỉ và thần sắc, là phần Tiên trong con người, là bản chất của Thần, Ý, Khí và Lực của người đó. Phần Rồng, hành động của một người, hoặc một nhóm người, luôn luôn phản ảnh phần Tiên, sự suy tư của những người đó. Để tránh bị mắc mưu như Dương Đông Kích Tây, chúng ta phải suy xét trọn vẹn hai chiều Tiên Rồng trong mỗi dữ kiện lớn nhỏ mà ta thu thập được.

Trong sự trống vắng và yên tĩnh tự nhiên của Thời Không, một ý niệm dấy lên, hay một lời nói thoát ra, sẽ làm động ý thức về Thời Không trong chính đối tượng đó. Nếu Thần của ta giữ được sự trống vắng và yên tĩnh tự ban đầu, thì sự nhận định trong ta về bản chất của những trạng thái động đó sẽ hiện ra rất rõ. Khi Ý của đối phương hiện ra, thì trong ta tự nhiên sẽ có Ý tưởng đối chiếu. Đây là hiệu quả của nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp, rằng vạn vật từ sự Song Hiệp của Tiên và Rồng mà hiện hữu. Có Tiên thì có Rồng, ngược lại cũng vậy.

Khi Thần (cái nhìn) đã định thì Ý (sự muốn) tự nhiên phát; khi Ý phát thì Khí (sức sống) tự nhiên theo đó mà kết thành; và Lực (sức mạnh) cũng tùy theo Khí mà xuất hiện. Đây là một định lý của Thế: Thần Ý Khí Lực luôn luôn luân chuyển. Thần Ý vô hình; Khí Lực hữu hình. Trong Tiên cũng có Tiên Rồng, trong Rồng cũng vậy. Thế ra sao thì Dụng như vậy.

Hoa Tiên Rồng: Sự Xoay Vần

Trong trạng thái Tĩnh, bốn Sức Sống hiện rõ nét: sức mạnh của Thân lực; sự sáng của Trí tài; khả năng yêu thương của Tâm tình; và sự thông thấu của Tuệ linh. Trong trạng thái Động, Bốn Sức Sống xoay quanh nhau, hiệp cùng nhau, xoáy vào nhau, xuyên thấu trọng tâm đối tượng. Nguyên lý “Song” (Đôi, như nhau) và “Hiệp” (mãi mãi là Một trong nhau) của Tiên và Rồng giữ cho các sức sống quyện vào nhau mà vẫn giữ được bản chất riêng biệt. Có mà không mất; hoặc mất mà lại Có.

Thân và Trí đối diện nhau; Tâm và Tuệ phản ảnh nhau. Trong Hoa Tiên Rồng, mỗi sức sống có thể hoạt động riêng biệt hoặc trở nên hiệp nhất để đạt những mục tiêu chung. Dùng Hoa Tiên Rồng, chúng ta có thể nhận thức được sức sống trong từng người cũng như của nhiều người.

Một nguyên lý căn bản của Võ học là Khi Động thì tất cả đều động như nhau; khi Tĩnh thì tất cả đều tĩnh với nhau. Nguyên lý này là nền tảng của khả năng tự khắc, phần Tiên, của một chiến sĩ, một tổ chức, một quốc gia, hay một dân tộc. Không có khả năng tự khắc chế cảm tính hoặc cuồng vọng trong chính mình thì con người chỉ có thể đi đến chiến bại mà thôi; mà đã là chiến sĩ thì không bao giờ chấp nhận sự chiến bại cả.

Nguyên lý thứ hai của sự chiến đấu là Đưa đối phương vào Hư Không. Mục tiêu của hành động, phần Rồng, là sự dẫn dắt đối phương về nơi cội nguồn của vũ trụ, phần Tiên, rằng muôn vật tự Hư Không mà đến rồi trở về. Nơi nào đối phương bám vào để tạo Thế và Lực, nơi ấy là đầu dây mối nhợ cho mục tiêu của sự xụp đổ và hủy diệt. Trước khi giao tranh, người chiến sĩ thấy được sự chiến thắng rồi mới chiến đấu. Trong lúc giao tranh, người chiến sĩ coi Hư Không là chiến địa. Tiên Tranh nơi Hư (chỗ đối phương không cho là Thực); Rồng Đánh chỗ Không (nơi đối phương vì không cho là Thực cho nên không canh giữ).

Hoạt động của Hoa Tiên Rồng có thể nương theo bản chất của Bốn Sức Sống trong đối tượng, hoặc Bốn Mùa (nóng, lạnh, ướt, khô), hoặc Bốn Phương (cao, thấp, ngang, dọc), hoặc Tám Hướng (trên, dưới, xa, gần, sâu, cạn, ngày, đêm), tùy theo môi trường, điều kiện, mục tiêu đặt ra, và phương tiện sẵn có.


Hoa Bảo Bình: Sự Mở Đóng


Muốn xa thì đóng; muốn gần thì mở. Sự mở đóng của khí lực, của trí năng, của yêu thương, và của sự hiểu biết trong chính mình là do quyết định của đối tượng, không phải do mình. Người chiến sĩ sống cho Bọc, sống vì Bọc. Một người sống cho riêng mình, hoặc cho riêng gia đình của mình, sẽ không có khả năng bảo vệ làng xã một khi giặc cướp đến. Một nhóm người sống riêng cho nhau, hoặc cho đảng phái của nhau, sẽ không có khả năng bảo vệ quốc gia và dân tộc một khi có giặc xâm lăng đến.

Nhìn người mà suy về ta, hoặc nhìn lịch sử mà nghĩ về hiện tại: Hoa Kỳ là một quốc gia ra sao? Người Mỹ là loại người ra sao, mà trong vài trăm năm, Hoa Kỳ đã trở thành một đại cường quốc, lãnh đạo thế giới? Người Việt và lịch sử Việt ra sao, mà đến nay, sau vài ngàn năm, vẫn chìm sâu trong độc tài độc đảng và khổ đau nhục nhã? Chúng ta phải cùng nhau suy xét, so sánh, để thấy rằng sự thay đổi chính mình là mấu chốt. Một cuộc Cách Mạng Dân Tộc phải bắt đầu. Điều gì mình không biết thì học của người. Vật gì mình không có thì mượn của người. Những gì Tổ Tiên đã trao, chúng ta phải ghi nhớ, phải giữ gìn.

Hoa Bảo Bình lớn lên và mở rộng, hoặc thu nhỏ và khép kín, tùy theo nhu cầu của sự phát triển trong một môi trường nhất định, hoặc tùy theo những đòi hỏi của sự đấu tranh để sống còn, cho một người, một gia đình, một cộng đồng, một quốc gia, một dân tộc, hoặc cho cả nhân loại nói chung.

Bạn hãy thử tập nhìn vào từng đóa Hoa: Hoa Song Hiệp; Hoa Tiên Rồng, và Hoa Bảo Bình. Hoa Song Hiệp giúp Bạn nhận ra đâu là Xã Hội, đâu là Tiên, đâu là Rồng, và Đâu là Một Bọc Trăm Con. Hoa Tiên Rồng giúp Bạn thấy được bản chất của cái mạnh, cái sáng, cái thân thương, và cái tánh của chính Bạn và của mọi người. Hoa Bảo Bình giúp Bạn thấy được khả năng hành động, tầm vóc suy tư, khả năng tổ chức, và tầm độ ảnh hưởng của chính mình hoặc của bất cứ tổ chức hay quốc gia nào, trong bất cứ lãnh vực nào.

Nhìn cho lâu, nhìn cho kỹ, rồi suy, rồi nghĩ, cho đến khi nào Bạn thấy được, hiểu được, điều hiệp được, và áp dụng được Bốn Sức Sống trong chính Bạn. Vườn Hoa Dân Tộc trong Bạn sẽ hiện ra rõ rệt, sẽ đơm bông, sẽ lớn mạnh, sẽ kết quả.

Thần là sự Thấy; Ý là sự Muốn; Khí là sức Sống; và Lực là sức Mạnh. Đây là những hiệp tính của Võ. Khi Vườn Hoa Dân Tộc trong Bạn nở rộ, thì Thần Ý Khí Lực của Bạn mới trở nên Chân Chánh, mới trở nên phương tiện để Bạn đi Xây Đời, đi Cứu Người, Bạn nhé!

HỌC THUYẾT TIÊN RỒNG VÀ TỔ CHỨC TRỌNG TÂM MẠNG LƯỚI

HỌC THUYẾT TIÊN RỒNG VÀ TỔ CHỨC TRỌNG TÂM MẠNG LƯỚI

“Không có sự tranh luận mà chỉ có diễn biến nhận thức cho đến khi nhận thức được”.

Phân biệt được đâu là Chánh, đâu là Tà, trong suy tư và hành động là nền tảng của Đạo Đức Làm Người.

Sự ăn khớp tuyệt đối ngẫu nhiên giữa Học thuyết Tiên Rồng và Lý Thuyết Trọng Tâm Mạng Lưới (Network Centric Theory) của Hoa Kỳ là dấu chỉ cho một Thời Đại Mới sắp thành hình do sự song hiệp giữa hai thái cực của hai nền văn hóa và văn minh Việt Mỹ.

Từ nơi cùng tột của tình nghĩa Đồng Bào ruột thịt trong nền văn hóa Tộc Việt, đến tuyệt đỉnh của văn minh Hoa Kỳ về khoa học tổ chức xã hội loài người, một nếp sống mới sắp được nẫy sinh, một nếp sống mà loài người sẽ có đầy đủ lòng tự hào để hiên ngang bước vào cuộc hành trình đi tìm một lối sống đầy hạnh phúc trên trái đất.

Trong vũ trụ mênh mông bất tận này, chúng ta sẽ cùng nhau bước trên những con đường mới, hướng về những mục tiêu mới, xây dựng những cuộc đời mới, những xã hội mới. Nơi đâu có tinh thần Một Bọc Trăm Con và tổ chức Trọng Tâm Mạng Lưới song hiệp, thì nơi đó con người sẽ được chung hưởng hạnh phúc làm người trong tình nghĩa, trong tự do trọn vẹn.

Tinh thần Một Bọc Trăm Con, tinh hoa của Học thuyết Tiên Rồng, biểu trưng cho tình nghĩa Đồng Bào ruột thịt, là nền tảng cho sự sống còn của toàn thể Tộc Việt qua mấy ngàn năm nay. Chỉ có từ ngữ Đồng Bào mới diễn đạt trọn vẹn được tình người thực sự: Mọi người cùng được thụ thai trong Một Bọc từ Một Mẹ và Một Cha, được nuôi dưỡng và sinh ra cùng một lúc, giống nhau như đúc. Nhờ sống thực được tinh thần này mà người Việt mới tồn tại cho đến hôm nay. Tinh thần Một Bọc Trăm Con là nguyên do tại sao mấy ngàn năm qua, người Việt có thể đánh bạt những cuộc xâm lăng của người Hoa và của những dân tộc khác.

Lý Thuyết Trọng Tâm Mạng Lưới được sinh ra giữa những cơn loạn lớn của Thời Đại Tín Liệu. Làm sao để liên hiệp các hệ thống tổ chức một cách hữu hiệu là nhu cầu cấp bách. Người Mỹ đã sáng tạo được lý thuyết cho một hệ thống tổ chức vừa thích hợp cho thời đại này, vừa thực thi được những lý tưởng tự do và bình đẳng của con người như trong Hiến Pháp Hoa Kỳ đã ghi. Cấu trúc và sinh hoạt của tổ chức Trọng Tâm Mạng Lưới giải cứu con người thoát khỏi hệ thống tổ chức Kim Tự Tháp của những nền văn hóa Chủ Nô.

Hệ thống tổ chức Kim Tự Tháp luôn luôn có một người trị vì trên đỉnh cao tột cùng của quyền lực. Đây là tầng thứ nhất. Tầng thứ hai là một nhóm người thân thuộc vây quanh lãnh tụ, tạo nên giai cấp hoàng gia. Tầng thứ ba là giai cấp quý tộc với hệ thống lập pháp, chuyên lo việc bảo vệ quyền lực của giai cấp thống trị. Tầng thứ tư là hệ thống hành pháp và tư pháp, cấp thừa hành mà hoàng gia và quý tộc thường gọi là nô tài. Họ được dùng để trừng phạt những kẻ bất tuân. Ở đáy cùng của địa ngục này là nô lệ, là đại đa số người dân trong một nước. Các hệ thống tổ chức Kim Tự Tháp được hình thành một cách vững chắc từ khi con người biết dùng đồ đồng để làm khí giới (The Bronze Age). Khả năng chiến tranh của con người được khoa học hóa từ đó, cách đây năm ngàn năm.

*******************************************

TỔ CHỨC TRỌNG TÂM MẠNG LƯỚI VÀ HỌC THUYẾT TIÊN RỒNG

1. A Robust Information Sharing Infostructure: Một Cấu Trúc Tín Liệu với Sự Trao Đổi Tín Liệu Liên Động

Robust Information Sharing là sự đóng góp và chia sẻ tín liệu một cách liên tục và sống động. Infostructure là Cấu Trúc Tín Liệu, là nền tảng của một tổ chức với hệ thống mạng lưới là trọng tâm. Theo thuyết này, Mạng Lưới (Network) gồm những mối liên hệ giữa các Giao Điểm (Nodes) trong toàn bộ cấu trúc. Sự đóng góp và chia sẻ tín liệu liên tục và sống động là điều kiện quan trọng nhất cho hoạt động của tổ chức. Các giao điểm tạo những mối liên hệ trực tiếp, tùy theo nhu cầu công việc. Các Đơn Vị Biên Thùy (Edge) đóng góp tín liệu. Cấu Trúc Tín Liệu yểm trợ tiền tuyến bằng việc chia sẻ tín liệu hữu dụng nhanh, nhạy. Sự hổ tương giữa trung ương và tiền tuyến là điều kiện bắt buộc cho sự hoạt động hữu hiệu của cấu trúc này.

Áp dụng tinh thần Một Bọc Trăm Con vào Cấu Trúc Tín Liệu, chúng ta có Văn Hóa và Đạo Sống Tiên Rồng. Hoa Tiên Rồng và Hoa Bảo Bình là hai biểu đồ cho việc phân nhiệm tài năng trong tổ chức và công tác phân loại các mảnh tin.

Hoa Tiên Rồng là hình ảnh của bản chất con người. Qua bốn Sức Sống: Thân - Trí - Tâm - Tuệ, chúng ta có thể nhìn và hiểu rộng ra, từ từng người đến gia đình, làng xóm, cộng đồng, đến quốc gia và quốc tế, những sinh hoạt Kinh Tế, Quốc Phòng, Xã Hội, và Chính Trị.

Hoa Bảo Bình là biểu đồ cho cường độ sức mạnh, mức độ hiểu biết, dung độ yêu thương, và cấp độ chỉ huy và lãnh đạo trong từng con người lên đến mọi người.

Trong cuộc chạy đua này, những điều kiện thiết yếu cho sự hình thành và hoạt động hữu hiệu của tổ chức Trọng Tâm Mạng Lưới, mà mọi người đang đi tìm, thì người Việt đã sẵn có.

2. Power to the Edge: Quyền Lực ra đến Biên Thùy

Trọng tâm của tổ chức mạng lưới là để cho quyền năng quyết định về kế hoạch thực thi sứ mạng được đặt nơi các đơn vị tiền tuyến. Cũng như cả một hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ được đặt ra để bảo vệ quyền lợi của từng người dân, Cấu Trúc Tín Liệu được tạo nên để yểm trợ cho từng người chiến sĩ biên thùy.

Chữ Edge mang hình ảnh một lưỡi dao và mũi nhọn của con dao. Chiến đấu bằng một con dao mà không biết tận dụng bản chất của nó thì ra chiến trường như đi tự sát.

Nhìn vào Truyền Kỳ Phù Đổng thì sẽ thấy rõ hình ảnh Quyền Lực ra đến Biên Thùy. Khi người dân bộc lộ được khả năng và ước muốn chiến đấu của họ thì tổ chức yểm trợ những sáng kiến và kế hoạch của dân một cách liên tục và sống động, một tổ chức bởi dân, cho dân, vì dân và vì nước. Dùng Hoa Song Hiệp để điều hợp sự lưu thông của hai giòng tín liệu, từ trung ương ra và từ biên thùy về. Mục tiêu là thông hiệp được hai trọng tâm của sứ mạng: Chúng ta (1) làm cách nào để đạt được mục tiêu chiến lược (Strategic Objective) trên chiến trường (2) một cách nhanh nhất và ít hao tổn nhất về nhân lực cũng như vật lực.

3. A Flat Organization: Một Tổ Chức Dẹp

Cấu trúc của tổ chức là một mặt phẳng. Tổ chức của các quốc gia trên trái đất hiện nay đều nằm trong khuôn mẫu của hình Kim Tự Tháp, kể cả Hoa Kỳ, cho nên mặc dầu đã lập được thuyết, người Mỹ vẫn chưa thành lập một tổ chức dẹp hữu hiệu được. Cấu trúc Kim Tự Tháp khuyến khích và duy trì những dục tính trong con người, nơi con người cấu xé lừa gạt nhau để trèo lên đỉnh cao của quyền lợi và danh vọng. Cấu trúc Kim Tự Tháp là lý do tại sao mọi cuộc cách mạng của nhân loại thất bại sau khi thành công ở giai đoạn đầu.

David Alberts, người lãnh đạo tiên phong cho cuộc cách mạng tư tưởng về tổ chức trong Lý Thuyết Trọng Tâm Mạng Lưới, đã viết: “The Power of Network Centric Warfare is derived from the effective linking or networking of knowledgeable entities that are geographically or hierarchically dispersed. The networking of knowledgeable entities enables them to share information and collaborate with one another to achieve a degree of self-synchronization. The net result is increased combat power.” (Dr David S. Alberts, Network Centric Warfare, 1999, pp. 6-7).


“Sức Mạnh của Chiến Tranh Trọng Tâm Mạng Lưới được kết tinh từ sự giao tiếp hữu hiệu, hoặc sự liên kết, của những thực thể hiểu biết, giữa những đơn vị hoặc những cấp bậc xa rời nhau. Sự liên kết của những thực thể hiểu biết giúp họ chia sẻ tín liệu và hiệp tác với nhau để đạt được mức độ tự đồng bộ hóa. Kết quả là sức mạnh chiến đấu phát triển.” Sự lưu thông của tín liệu càng nhanh, khả năng kết nạp, phân loại, phân tích và tổng hợp tín liệu của tổ chức càng chính xác, thì sức mạnh Tín liệu Trổi Vượt (Information Superiority) của tổ chức càng tăng.

Tín liệu trong một tổ chức Kim Tự Tháp phải đi từ dưới lên trên, qua rất nhiều nút chắn của cấp bậc và trở ngại khó khăn giữa những đơn vị cách xa nhau. Trên con đường đèo ngoằn ngoèo khúc khuỷu này, các mảnh tin từ tiền tuyến luôn luôn bị thanh lọc theo tư duy riêng biệt của cấp chỉ huy. Quyền lực của các cấp lãnh đạo và chỉ huy thường là quyền sinh sát, nên cấp dưới chỉ nói những gì cấp trên muốn nghe, sợ “Sự thật mất lòng”.

Vì không thể nào nắm rõ tình hình nơi tiền tuyến, các cấp lãnh đạo và chỉ huy thường ra lệnh tùy theo ý mình. Tổ chức Kim Tự Tháp trở thành địa ngục của sự chỉ huy một chiều. Hình phạt đặt ra cho những ai vi phạm kỹ luật phải càng ngày càng trở nên khắt khe, vì loại tổ chức này đi ngược lại bản chất của nhu cầu sinh hoạt xã hội tự nhiên của con người, rằng giá trị của mạng sống, của sự hiểu biết, của yêu thương, và danh dự của từng con người phải luôn luôn được quý trọng.

Tổ chức dẹp là nhu cầu quan trọng nhất cho các quốc gia và các đại công ty liên quốc, vì cuộc chiến toàn cầu hiện nay đòi hỏi sự liên lập giữa các hệ thống quyền lực, nhất là quân đội. Vị “vua” này không thể ra lệnh cho vị “vua” kia, hoặc vị tướng của quốc gia này không thể ra lệnh cho vị tướng của quốc gia khác.

Tham mưu và quyết định phải được đặt trên cấu trúc tín liệu mà những mối liên hệ giữa các khối quyền lực đã kết thành. Khả năng hiểu biết phát triển nhờ tín liệu giao lưu và kết tụ, do khả năng tìm tin, thu tin, lọc tin và truyền tin trổi vượt của tổ chức Trọng Tâm Mạng Lưới với Học thuyết Tiên Rồng làm nền tảng.

4. Information Superiority: Tín Liệu Trổi Vượt

Khả năng tạo được Tín Liệu Trổi Vượt là sức mạnh của tổ chức. Cụm từ "diễn biến nhận thức cho đến khi nhận thức được" là phương châm hoạt động cho một cấu trúc tín liệu. Vận tốc di chuyển tín liệu không chỉ nằm trong vận tốc của máy điện toán, mà do khả năng hệ thống hóa tín liệu của mỗi thành viên trong tổ chức.

Muốn hệ thống hóa tín liệu một cách hữu hiệu thì phải có một hệ thống tổ chức thích hợp với cách sống, cách suy nghĩ, cách làm việc, và cách sinh hoạt của con người. Muốn thấy được bản tánh của con người thì phải nhận diện con người cho chính xác. Điều này chỉ có Học thuyết Tiên Rồng hiện thực được.


Hoa Tiên Rồng với bốn Sức sống: Thân, Trí, Tâm, Tuệ, biểu trưng cho hình ảnh một con người trọn vẹn. Các hệ tư tưởng khác chỉ thấy được một, như duy vật, duy lý, duy tâm và duy linh, hoặc vài sức sống trong con người, hoặc thấy hết mà lại không hệ thống hóa được. Không hệ thống hóa thì không thể khoa học hóa. Không khoa học hóa thì không nắm vững sự phát triển. Cho nên, sự song hiệp giữa Học thuyết Tiên Rồng và tổ chức Trọng Tâm Mạng lưới sẽ tạo nên một môi trường sinh hoạt vô cùng hữu hiệu cho con người và xã hội loài người.

5. Self-Synchronization: Sự Tự Đồng Bộ Hóa

Hình ảnh này đẹp lắm! Sự Tự Đồng Bộ Hóa cũng xảy ra trong thiên nhiên, giữa các vật thể vô tri như photons. Khi có môi trường thích nghi cho sự phát triển tự nhiên của một vật thể, thì vật thể đó tự đồng bộ hóa. Từ một photon cực kỳ nhỏ bé và yếu đuối mà lại có khả năng gây ảnh hưởng để tạo ra một tia la-se cực sáng và cực mạnh (Sync: The Emerging Science of Spontaneous Order, Steven H. Strogatz, 2003).

Khi tổ chức có khả năng kết nạp tín liệu một cách hữu dụng thì các giao điểm, hoặc từng con người, sẽ tự nhiên tham gia và hiệp tác. Việc gì có lợi ích cho từng người và cho mọi người thì ai ai cũng muốn theo.

Với nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp Hoàn Chỉnh, tổ chức Trọng Tâm Mạng Lưới có được khả năng kết nạp những giao điểm mới và duy trì bền vững từng mối liên hệ.

6. Emergent Leaders: Lãnh Đạo Xuất Hiện

Khi một nhóm người sinh hoạt và trao đổi tín liệu, thì những ai điều hợp sự vận chuyển tín liệu, hoặc phân tích loại tín liệu nào đến đâu, thì khả năng chỉ huy hoặc lãnh đạo của những người đó, trong những lãnh vực chuyên biệt đó, đến đó. Khả năng lãnh đạo cũng tùy thuộc vào khả năng điều hợp các thành viên và điều động tổ chức. Tùy theo công việc và mục tiêu mà quyền hành và thời hạn của lãnh đạo và chỉ huy được quyết định bởi mọi người chịu trách nhiệm cho những chương trình đó.

Trong một tổ chức, người lãnh đạo phải có khả năng thấy được chiều dài, chiều xa, chiều cao, và chiều sâu của một chương trình. Người quản lý thì lo việc hành chánh và tài chánh cho tổ chức. Người chỉ huy điều động nhân sự và gom góp vật liệu, tùy theo môi trường và điều kiện sẵn có, để hoàn thành sứ mạng tổ chức giao phó. Cấp hành động gồm những người có khả năng chuyên biệt để đáp ứng với nhu cầu của công việc.

Trong Truyền Kỳ Phù Đổng, khi Sứ Nhân truyền tin đến toàn dân, và khi Phù Đổng nhận được tin và ý thức được sứ mạng và trách nhiệm cùng bổn phận của mình, thì Phù Đổng bật nói. Phù Đổng, tinh thần chiến đấu của từng người dân Việt, khi đã được đánh thức bởi sự hiểu biết về gía trị chân thực của chính mình, qua sự hiểu biết về Tổ Tiên và truyền thống của Dân Tộc mình, sẽ trỗi dậy, sẽ bộc lộ được Niềm Tin Chiến Thắng.

7. Effects-Based Operations: Hoạt Động Dựa Trên Hậu Quả

Mọi quyết định về chiến lược hoặc chiến thuật hoạt động phải luôn luôn được dựa trên sự hiểu biết của chúng ta về hậu quả của những quyết định đó.

Hiện nay, các hệ thống quyền lực toàn cầu và các đại công ty liên quốc (Transnational Corporations) đang nổ lực thực thi Chiến Tranh Trọng Tâm Mạng Lưới qua sự vận dụng những đơn vị hành động đặc biệt (Special Operations Units) để đột nhập, đột kích, quan sát, theo dõi, bắt cóc, ám sát, đánh cắp và phá hoại. Vấn đề chính là vì phương tiện kiểm soát bằng điện toán ngày càng tinh vi, trung ương cứ tưởng mình cũng đang chiến đấu nơi hiện trường với đội quân tiền tuyến nên thường đoạt quyền quyết định sách lược hành động của tiền tuyến (The Mission, The Men, and Me: Lessons from a Former Delta Force Commander, Pete Blaber, 2010).

Thời trước, vì phương tiện liên lạc bị giới hạn bởi không gian, tướng ngoài mặt trận có lúc không cần theo lệnh vua. Ngày nay, phương tiện truyền tin nhanh như ánh sáng. Các tổ chức Kim Tự Tháp dùng khả năng này để siết chặt hệ thống kiểm soát của trung ương. Các tổ chức Trọng Tâm Mạng Lưới thì dùng khả năng này để phát triển sức mạnh chiến đấu của các đơn vị biên thùy.

Trong tình nghĩa Đồng Bào, mọi suy toan, tính toán, dự định và chương trình phải được đặt trên hậu quả an nguy của Tổ Quốc và và hạnh phúc của từng người.

8. Mission-Capability Package: Kiện Hàng Sứ Mạng Khả Thi

Muốn đạt được một mục tiêu nào, chúng ta cần phải nghiên cứu và thiết lập một chương trình với những phương thức khả thi, theo Lý Thuyết Trọng Tâm Mạng Lưới, chớ không phải rập khuôn những cách thức cũ của tổ chức Kim Tự Tháp.

Trong Chiến Tranh Tín Liệu (Information Warfare), các hệ thống điện toán và mạng lưới tín liệu được dùng để tấn công đối phương trong im lặng và bí mật, để đối thủ ‘không biết mình đang bị tấn công, không tin mình đang bị tấn công, không hiểu tại sao mình đang thua, và không ngờ mình đã bị thua” (The Handbook of Fifth-Generation Warfare (5GW), Daniel H. Abbott, 2010).

Trong ‘Truyền Kỳ Tiết Liêu’, Tiết Liêu, một người con dân nước Việt, đã nhìn vào lịch sử và truyền thống dân tộc mà thấy được làm việc phải làm: thế nào để đoàn kết dân tộc, giữ cho sự đoàn kết đó vững bền, trong thời bình cũng như thời chiến. Tiết liêu đã soạn thảo được chương trình khả thi này với hai biểu tượng Sống Động và Hiện Thực: bánh chưng và bánh dày. Tiết Liêu đưa ra một sách lược mà ai ai cũng hiểu và làm theo được.

9. Shared Awareness: Sự Hòa Mục

Hòa mục là một thực tế chung (Shared Reality). Mọi thực thể trong tổ chức đều có một ý thức như nhau. Khi trung ương và tiền tuyến cùng song hiệp để chiến đấu, thì coi như tổ chức đó “Biết Mình”. Phải biết mình trước, sau đó chúng ta mới có khả năng phân biệt đâu là ta, đâu là giặc, để “Biết Người”, để “Trăm Trận Trăm Thắng” (Tôn Tử).

Trong Binh Thư Yếu Lược, Hưng Đạo Đại Vương dạy rằng “Hòa Mục là Đạo cho việc Trị Nước Hành Binh.” Nền tảng quan trọng nhất của một hệ thống tổ chức với cấu trúc mạng lưới tín liệu là sự hòa mục giữa trung ương và tiền tuyến về mục tiêu và hành động.

10. The Agility Advantage: Lợi Thế Linh Động

Tinh hoa của một tổ chức Trọng Tâm Mạng Lưới là khả năng đạt được Lợi Thế Linh Động, mà sức đàn hồi là đặc tính quan trọng nhất. Sự hiểu biết là nền tảng chiến đấu của mỗi con người và tổ chức. Sự hiểu biết này được cập nhật hóa nhanh bao nhiêu thì sức đàn hồi, tức khả năng phục hồi sức mạnh chiến đấu, của cá nhân và tổ chức đó mạnh bấy nhiêu.

Giá trị của tín liệu nằm trong sự khả tín của người đưa tin. Tinh thần Một bọc Trăm Con bảo đảm được sự khả tín này vì sự truyền tin được đặt trên nền tảng Thân Thương và Bình Đẳng Tột Cùng giữa các anh chị em cùng Mẹ cùng Cha, được sinh ra cùng một lần, sinh hoạt và sống thực với nhau trong cùng một Bọc.

****************************************

Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA ỨNG DỤNG NÀY

Xưa kia, tinh thần Một Bọc Trăm Con với tình nghĩa Đồng Bào đã cho Tổ Tiên của Tộc Việt sức mạnh chiến đấu với núi rừng hiểm trở, với gió mưa nắng rét. Rồi vài ngàn năm sau, khi Tộc Hoa dùng sức mạnh quân sự bạo tàn để xâm lăng nước ta, từ Hồ Đồng Đình đến nước Việt Nam, tinh thần Một Bọc Trăm Con của Tộc Việt chúng ta vẫn bền bỉ, vẫn hiên ngang, vẫn hào hùng, vẫn chiến đấu, vẫn bất khuất.

Ngày nay, thời đại tín liệu đang cho con người một khả năng mới: Gây nên một cuộc chiến toàn cầu, với chiến tranh toàn diện không biên giới, mà có thể chỉ do có một người, hoặc một nhóm người, ví dụ như chiến tranh vi trùng chẳng hạn.

Để có thể đương đầu với những mối đe dọa thật lớn do những nhóm người thật nhỏ, chúng ta phải cùng nhau tạo ra môi trường và điều kiện cho sự hiểu biết của mỗi người được tỏ bày trong ánh sáng, cho mọi người cùng nhìn thấy, rồi tùy mỗi người muốn quyết định ra sao cũng được. Sự tự do sáng tạo, tự do phát biểu, tự do tổ chức, và tự do hoạt động là hậu quả tất nhiên của quyền tự do quyết định, một quyền năng bất khả xâm phạm của con người.

Trong sự tranh giành quyền lực hỗn loạn trên trái đất hiện nay, mỗi người chúng ta cần ý thức rằng sự hiểu biết chân thật mãi mãi là của chung, vì được bắt nguồn từ khả năng yêu thương và tinh thần chiến đấu vì yêu thương luôn luôn hiện hữu. Yêu thương là sự chia sẻ và chung hưởng toàn diện.

************************************************

HIẾN CHƯƠNG CỘNG ĐOÀN TIÊN RỒNG

HIẾN CHƯƠNG CỘNG ĐOÀN TIÊN RỒNG

TỔNG QUAN

Nếp Sống Việt.

Nếp Sống Việt, nền Văn Hóa Tiên Rồng, chính là hình thức Sinh hoạt của Cộng Đoàn Dân Việt.
Trong mấy ngàn năm nay, người dân Việt đã và đang sống thực và kiện toàn Cơ chế Cộng Đoàn nầy. Tuy nhiên, cũng vì là cuộc sống, nên đã có nhiều thời thịnh suy, nhiều điểm hưng thoái.
Vì vậy, để phục hưng và phát huy trọn vẹn tinh hoa nền Văn Hóa Việt, cần những nhóm người khởi sự với những thực hiện cụ thể.

Cộng Đoàn Tiên Rồng.

Nhóm người nầy kết tụ thành Cộng Đoàn Tiên Rồng. Cộng Đoàn Tiên Rồng Quyết tâm Thể hiện Trọn vẹn mọi Đặc điểm của Con Người và của Xã Hội Tiên Rồng, trong cuộc sống thường ngày.
Vì Nếp Sống Tiên Rồng căn cứ trên Con Người toàn vẹn và tinh tuyền, nên cũng là nếp sống thích đáng của mọi Con Người.

Hiến Chương.

Hiến Chương của Cộng Đoàn Tiên Rồng là bản văn nêu phương thức ứng dụng thực tiễnmọi đặc điểm của nền Văn Hóa Tiên Rồng.
Hiến Chương tóm kết những điểm chính yếu về nền tảng, đặc tính, sức sống, cấu trúc, sinh hoạt, cũng như sứ điệp của Cộng Đoàn Tiên Rồng.
Hiến Chương cần được khai triển thích ứng với hoàn cảnh thực tế đương thời. Các thành phần theo tầm độ, địa phương, hoặc chuyên biệt, sẽ ứng dụng theo đặc tính cụ thể riêng.
Tất cả đều phải Sống Động Hiện Thực trong Tiên Rồng Song Hiệp, cho thống hợp và toàn vẹn.


SỨC SỐNG VÀ ĐẶC TÍNH của CỘNG ĐOÀN TIÊN RỒNG


Cộng Đoàn Tiên Rồng kết hiệp những Con Người cùng giúp nhau sống trọn vẹn cuộc sống của chính mình, trong một cộng đoàn đích thực và trọn vẹn là Người.
Do đó, Cộng Đoàn Tiên Rồng đặt nền tảng trên mọi đặc tính và sinh hoạt của Con Người và của Xã Hội Tiên Rồng, và thể hiện mọi Đặc tính hàm chứa trong hai Biểu tượng Tiên và Rồng, vào Cuộc sống thực tế.

Cuộc Sống Trọn Vẹn Con Người.

Theo Văn hóa Việt, trong Cuộc Sống Con Người, ở mọi thời mọi lúc, trong bất cứ tương quan hay sinh hoạt nào, bất kể trong đời sống riêng tư hay xã hội, hai phần Tiên Rồng, bốn Sức Sống Thân Trí Tâm Tuệ, cuộc sống Tương Thân Phát Triển, luôn quyện lẫn vào nhau.

Để có cuộc sống đích thực là Người, không thể sống một Sức sống mà không sống những Sức sống kia, không thể sống phần Tiên mà không sống phần Rồng, không thể sống Tương Thân mà không sống Phát Triển, không thể sống riêng tư mà không sống xã hội... Tất cả đều 50/50.

Bất cứ cuộc sống nào cũng phải sống trọn vẹn Bốn Sức Sống, trọn vẹn Tiên Rồng, vừa riêng tư vừa xã hội, vừa Thân Thương vừa Bình Đẳng, vừa Tương Thân vừa Phát Triển... thì mới thực sự sống Cuộc Sống Làm Người trọn vẹn, thì mới hưởng trọn vẹn Hạnh Phúc Làm Người.

Thực vậy, mọi Người đều sống 50% Tiên 50% Rồng, đều trọn Thân Trí Tâm Tuệ, đều thể hiện 100% tình Anh Em Một Bọc, đều sống Bình Đẳng và Thân Thương tột cùng, thì cuộc sống là gì nếu không là cùng nhau Sống Tương Thân Phát Triển, và chung nhau tận hưởng Sinh Thú Làm Người ?

BIỂU TƯỢNG TIÊN RỒNG với Cộng Đoàn Tiên Rồng.

Hai Biểu tượng Tiên và Rồng là kết tinh của Nhận định Nền Tảng về Cuộc Sống Con Người và Xã Hội Loài Người, nên cũng là Nền tảng và là Sức sống sâu vững nhất của Cộng Đoàn Tiên Rồng.

Theo Truyền kỳ Tiên Rồng:

Khi nói chúng ta là dòng giống Tiên Rồng, Tổ Tiên muốn diễn tả Con Người là một hiệp thể sinh động, với nhiều đặc tính độc đáo, được kết tinh thành hai Biểu Tượng Tiên và Rồng.

Hễ nói tới Tiên, chúng ta nghĩ ngay tới hình ảnh của xinh đẹp, dịu hiền, từ tâm, khoan ái, yêu thương... mà cũng thoát tục, siêu phàm, như thần như thánh, trường sinh bất tử, sống động nhưng vượt thời gian vượt không gian.

Cũng vậy, Rồng biểu trưng cho oai dũng trỗi vượt, cho sức mạnh vô song, sức sống vô tận, biến hóa không lường, như linh như hiển... khi thì ẩn mình dưới đáy biển cả, lúc lại vẫy vùng trên tầng trời cao, làm mây làm mưa, giáng ơn giáng phước...
Là con cháu Tiên Rồng, là hiệp thể do Tiên Rồng phối hiệp, có nghĩa là Con Người vừa biến hóa như Rồng vừa trường cửu như Tiên, vừa vật thể vừa siêu phàm, vừa trong thời không vừa vượt thời không, vừa linh động vừa thường hằng, vừa hùng dũng cương quyết vừa xinh đẹp dịu hiền, vừa lý vừa tình, vừa uy lực vô song lại vừa chan chứa yêu thương...

Khi cha Rồng nói : 'Năm mươi con theo mẹ, năm mươi con theo cha', chính là xác quyết sự tương đồng tuyệt đối giữa hai nhóm đặc tính trong Con Người : một nửa do Mẹ, một nửa do Cha, năm mươi phần trăm là Tiên, năm mươi phần trăm là Rồng. Tiên Rồng kết hiệp tương song: Song Hiệp.

Trong đời sống thực tế, những đặc tính nầy bộc lộ thành 4 Sức Sống của Con Người.

ĐẶC TÍNH của TIÊN RỒNG.

Tiên Rồng có 4 đặc tính độc đáo:

a. Tiên Rồng kết hiệp: Hiệp Tố Tác Nhân.

Dầu ở nhiều hình thái khác nhau, nhưng Tiên và Rồng luôn biểu trưng cho hai thành phần tiêu chuẩn của bất cứ Tương quan hay Sinh hoạt đích thực nào của Con Người.
Như thế, không thể xét Tiên Rồng theo lượng, cũng không thể xét theo phẩm, mà xét theo Tác Nhân.
- Dầu cái trứng lớn hơn tinh trùng cả trăm ngàn lần, đứa con vẫn là một nửa do mẹ một nửa do cha.

b. Tiên Rồng thực tế: Thực Thể Nhân Sinh.

Lại nữa, vì Tiên Rồng là Biểu tượng do việc nhận diện Con Người thực tại, nên hiệp thể do Tiên Rồng phối hiệp là một thực thể nhân sinh, một thực tại, một tương quan, một sinh hoạt đích thực là Người.

- Thực thể nhân sinh có thể là thực thể xã hội, chính trị, kinh tế, tâm lý... với các hiệp tố như mẹ và cha, vợ và chồng, cá nhân và cộng đoàn... như thể chất và tinh thần, tài và đức, tình và lý, tự do và định mệnh... với các thành phần của một sinh hoạt, như chủ và thợ, chỉ đạo và chấp hành...

c. Tiên Rồng tương ứng: Song Hiệp Hoàn Chỉnh.

Trong Truyền kỳ Tiên Rồng, cũng như trong toàn Bộ Truyền Kỳ, đặc tính Song Hiệp của Tiên Rồng đã tỏ hiện thành Nguyên Lý nền tảng sâu xa và phổ quát nhất của Văn hóa Việt, của Cuộc Sống Con Người. Tiên nào Rồng nấy, Rồng nào Tiên nấy.

Trong bất cứ phương diện nào của cuộc sống, hễ đâu có đặc tính đích thực là Người, thì ở đó có Tiên Rồng Song Hiệp.

- Đặc tính Song Hiệp được nhận biết rõ ràng nhất trong đời sống vợ chồng, trong đời sống Mẹ Cha. Hai người hiệp nhất trong cuộc sống, nhưng vẫn là hai.

d. Tiên Rồng hiện thực: Sống Động Hiện Thực.

Tiên Rồng là hai hiệp tố tương ứng cấu thành một hiệp thể nhân sinh sống động hiện thực, nên Tiên Rồng cũng luôn Sống Động và Hiện Thực, luôn theo đúng thực tế, mà kiểm chứng bản chất và sự tăng trưởng của thực thể nhân sinh.

ĐẶC TÍNH của CỘNG ĐOÀN TIÊN RỒNG

Cộng Đoàn Tiên Rồng là một Hiệp Thể Tiên Rồng toàn vẹn.
Vì vậy, Cộng Đoàn Tiên Rồng không chỉ có những Tính chất và Đặc điểm của Tiên và Rồngriêng biệt, mà còn có mọi Tính chất và Đặc điểm của Hiệp thể Tiên Rồng.

Cộng Đoàn Tiên Rồng là Hiệp Tố Tác Nhân.

Cộng Đoàn Tiên Rồng luôn là Hiệp tố Tác nhân, kết thành một thực thể do Tiên Rồng phối hiệp, trong bất cứ Tương quan hay Sinh hoạt nào của Con Người, của cá nhân thành viên cũng như của toàn thể Cộng Đoàn.

- Là Hiệp tố Tác nhân, nên Tiên và Rồng không thể đối lập, không thể mâu thuẫn, không phải trung dung...

Cộng Đoàn Tiên Rồng là Thực Thể Nhân Sinh.

Cộng Đoàn Tiên Rồng sinh hoạt như một Con Người trọn vẹn, với mọi đặc tính của con người.
Như vậy, Cộng Đoàn Tiên Rồng sinh hoạt như những Thực thể Nhân Sinh toàn vẹn, với những thực tại, với những tương quan, với những sinh hoạt đích thực là Người.

Thực thể Nhân sinh nầy sống động trong tất cả mọi phương diện của cuộc sống con người, như cá nhân, gia đình, xã hội, chính trị, kinh tế, kỹ thuật, tâm lý, y tế... Tất cả đều thuộc sinh hoạt của Cộng Đoàn Tiên Rồng.

- Là Thực thể Nhân sinh, Tiên Rồng căn cứ trên Cuộc sống Con Người hiện thực, nên Tiên và Rồng không áp dụng cho những trừu tượng, hay ý niệm, không cho tốt và xấu, đúng và sai... không cho trắng và đen, nóng và lạnh...

Cộng Đoàn Tiên Rồng thể hiện Song Hiệp Hoàn Chỉnh.

Bản chất, Cấu trúc, cũng như Sinh hoạt của Cộng Đoàn Tiên Rồng luôn lấy đặc tính Tiên Rồng Song Hiệp làm nền tảng sâu xa và phổ quát nhất. Hai thành phần tiêu chuẩn Tiên và Rồng không chỉ hiệp nhất cấu thành một tự tại nhân sinh đặc thù, mà Tiên Rồng vẫn luôn tương song, và có thể được nhận diện riêng rẻ.

Để luôn đích thực là thành phần sống động của Cộng Đoàn Tiên Rồng, hai thành tố Tiên và Rồng của mỗi một tương quan, của mỗi một sinh hoạt, đều phải theo đúng bản chất, đặc tính,và tầm độ, mà tương ứng. Tiên nào Rồng nấy, Rồng nào Tiên nấy.

- Khi không còn thực sự là Tiên là Rồng là Song là Hiệp, thì tương quan hoặc sinh hoạt đã biến chất, không còn thực sự là nhân sinh, không còn thực sự là của Con Người toàn vẹn.

Cộng Đoàn Tiên Rồng thể hiện Sống Động Hiện Thực.

Cũng như Con người, Cộng Đoàn Tiên Rồng luôn sống động và hiện thực, luôn theo đúng thực tế sinh động, mà kiểm chứng bản chất và sự tăng trưởng của một Cộng Đoàn đích thực là Người.

Khi thiếu một trong những yếu tố là Sống là Động là Hiện là Thực, thì Cộng Đoàn không còn tăng trưởng, không có sức sống.

- Khi đã biến chất, hoặc ngưng tăng trưởng, thì không còn thực sự là Tương Quan hoặc Sinh Hoạt của Cộng Đoàn Tiên Rồng, mà chỉ là hình thức, là cái xác không hồn, hoặc biến thành tương quan hay động tác của thú vật, của máy móc, của quái thể.


BIỂU ĐỒ SỨC SỐNG của Cộng Đoàn Tiên Rồng: 

Hoa Song Hiệp.

Hoa Song Hiệp biểu trưng cho nguyên lý nền tảng của nền Văn hóa Tiên Rồng, là Tiên Rồng Song Hiệp, nên cũng là biểu trưng nền tảng quan trọng và phổ quát nhất của Cộng Đoàn Tiên Rồng.
Để chỉ Tiên và Rồng tương song, ta có hai vòng tròn bằng nhau. Để nói lên sự hiệp nhất, hai vòng tròn cắt nhau tại tâm.



Vòng bên trái chỉ phần Tiên, vòng bên phải là vòng Rồng. Phần giao nhau, phần hiệp, là Bọc Việt, chỉ Con Người. Phần không giao nhắc nhớ dầu đã trở thành Một, mà vẫn là Hai, là Một Đôi. Hiệp mà vẫn Song.

Vòng ngoài là vòng Vũ Trụ, tức để chỉ mọi hữu thể ngoài Con Người.

* Để nhắc nhớ đặc tính nền tảng nhất của Văn hóa Việt, biểu đồ có tên là Hoa Tiên Rồng Song Hiệp, hoặc là Hoa Song Hiệp.

*129 - Đọc 224. Tiên Rồng : Biểu Tượng Cuộc Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ và Thạp Trống Đồng, phần 6.

* * * *

130 - TIÊU BIỂU THỰC TẠI TIÊN RỒNG của CỘNG ĐOÀN TIÊN RỒNG

Văn hóa Việt đã kết tinh kinh nghiệm và nhận định về Cuộc sống của Con Người và Xã Hội Việt thành Bộ 9 Truyền kỳ Việt.

Vì vậy, Bộ Truyền Kỳ Việt chính là những Cuộc sống Tiêu Biểu cho Cộng Đoàn Tiên Rồng.

Mỗi Tiêu Biểu, mỗi Truyền kỳ, lại hàm chứa những Bài Học Thực tế, những Nguyên tắc Thực hành cho Cuộc sống.

*

131 - TIÊU BIỂU LÝ LỊCH TIÊN RỒNG của Cộng Đoàn Tiên Rồng

Lý lịch các Nhân Vật của Bộ Truyền kỳ cũng là Tiêu biểu để Cộng Đoàn Tiên Rồng thể hiện Cuộc sống Tiên Rồng trong Hiện Thực.

a. Trong 4 Truyền kỳ về Tương Quan, - Truyền kỳ Trương Chi, Trầu Cau, Vọng Phu và Chử Đồng - người phái Nữ thuộc phần của biểu tượng Mẹ Tiên, và phái Nam thuộc Cha Rồng.

b. Bốn Truyền kỳ Sinh Hoạt, - Truyền kỳ Mỵ Châu, An Tiêm, Tiết Liêu và Phù Đổng - Tiên là mầm sống, phương thức, tinh thần, sức sống, - Rồng là người hành động, người thể hiện.

c. Tiên Tương Quan, Rồng Sinh Hoạt

Tùy tương quan hay sinh hoạt, Tiên hoặc Rồng có thể có vị thế khác nhau.

Khi là tương quan, là Tình Nghĩa, là yêu thương đùm bọc, đưa tới kết hiệp trường cửu, thì Tiên là chính. Tiên điều hợp và thúc đẩy, trong lãnh vực tâm ý, tinh thần.

Khi là sinh hoạt, là Phát Triển, là hoạt động thực tế, thì Rồng trổ tài thiên biến vạn hóa. Rồng chủ động trong những công việc thiết thực của cuộc sống.

Tiên và Rồng hiệp nhất thành Cuộc Sống Con Người.

*131 - Đọc 224. Tiên Rồng : Biểu Tượng Cuộc Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ và Thạp Trống Đồng, phần 3, đb Sơ đồ.

*

132 - TIÊU BIỂU CUỘC SỐNG TIÊN RỒNG của Cộng Đoàn Tiên Rồng

Bộ Truyền kỳ Việt không chỉ thích ứng hai Biểu tượng Tiên Rồng vào hiện thực, mà Cuộc Sống các Nhân vật của Bộ Truyền kỳ còn là những Tiêu biểu Sống Thực trong Cuộc sống thường ngày.

Vì vậy, Cuộc sống Con người và Xã hội của Bộ Truyền kỳ Việt trở thành gương mẫu thực tế cho những Tiêu chuẩn Thực hành của Mọi Cuộc Sống, của Cộng Đoàn Tiên Rồng.

*132 - Đọc 224. Tiên Rồng : Biểu Tượng Cuộc Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ và Thạp Trống Đồng, đoạn 4.2 và 4.3.

*

133 - Tiêu biểu CUỘC SỐNG TIÊN RỒNG cho những CUỘC SỐNG TÌNH NGHĨA: Bốn Truyền kỳ Tình

Bốn Truyền kỳ Trương Chi, Trầu Cau, Vọng Phu, Chử Đồng, đề cập tới 4 tầm độ của Tương quan giữa người và người. Từ mối Tình hờ, tới Tình Nhà, rồi Nửa Nhà nửa Nước, và Trọn Nhà trọn Nước.

Trong mỗi Truyền kỳ, Tiên và Rồng luôn kết hiệp tương ứng, song hiệp.

a. Tình Riêng, Tình Nhà

Ở Truyền kỳ Trương Chi, khi đối với Tiên Mỵ Nương, Rồng Trương Chi là âm vang tiếng sáo mộng ảo, thì đối với Rồng Trương Chi, Tiên Mỵ Nương là hình bóng người tình thoáng gặp. Họ chỉ thấy Tài ở Rồng và thấy Sắc ở Tiên, chỉ thấy một phần con người của nhau, nên tình họ cũng chỉ là Tình Hờ mau qua.

Ở Truyền kỳ Trầu Cau, khi Rồng là người Chồng một lòng trọn nghĩa, thì Tiên là người Vợ sống chết trọn tình. Họ sống trọn vẹn Con Người đối với nhau, nên kết thành Tình Nhà.

*133a - Hai Truyền kỳ Trương Chi và Trầu Cau đã đặc biệt chú trọng tới tương quan giữa các cá nhân, tới Tình Riêng Tình Nhà. Nhưng Trương Chi Mỵ Nương tương quan hạn hẹp, còn Anh Cau Chị Trầu tương quan trọn vẹn.

- Về Truyền kỳ Trương Chi, đọc 208. Tình Yêu Nam Nữ - Truyền Kỳ Trương Chi.
- Truyền kỳ Trầu Cau, đọc 203. Tiêu Chuẩn Để Sống Tình Người - Truyền Kỳ Trầu Cau.

b. Tình Nhà, Tình Nước

Ở Truyền kỳ Vọng Phu, trong khi nàng Tiên Vọng Phu chu toàn Việc Nhà, thì chàng Rồng đi lo Việc Nước. Hai người phân công, mỗi người là phân nửa cuộc sống chung của nhau. Nửa Nhà Nửa Nước.

Ở Truyền kỳ Chử Đồng, nàng Tiên Tiên Dung đã đem hết của cải, dành trọn cuộc sống cho Rồng Chử Đồng và cho Anh Em Một Bọc, còn Rồng Chử Đồng thì góp trọn tài sức, vẫy vùng biến hóa. Nhờ đó, họ chung nhau một đời và Trọn Nhà Trọn Nước.

*133b - Hai Truyền kỳ Vọng Phu và Chử Đồng cũng cùng sống Tình Nhà Tình Nước. Nhưng vợ chồng nàng Vọng Phu dở dang, còn Chử Đồng Tiên Dung trọn vẹn.

- Về Truyền kỳ Vọng Phu, đọc 207. Đời Sống Gia Đình - Truyền Kỳ Vọng Phu.
- Truyền kỳ Chử Đồng, đọc 204. Tiêu Chuẩn Để Sống Bình Đẳng - Truyền Kỳ Chử Đồng.

*

134 - Tiêu biểu CUỘC SỐNG TIÊN RỒNG cho những SINH HOẠT CHUNG: Bốn Truyền kỳ Sinh Hoạt

Bốn Truyền kỳ Mỵ Châu, An Tiêm, Tiết Liêu, Phù Đổng, đặt trọng tâm vào việc Phát Triển Sức Sống, đem lại an vui thịnh vượng cho cuộc sống con người.

Khởi đầu là tấm gương tai hại của tham vọng vị kỷ, tới những đóng góp lợi ích trong phạm vi làng, rồi cho cả nước, ở thời bình và trong thời loạn. Tất cả, tùy tầm độ, đều gia tăng sức sống cho Trăm Anh Em Một Bọc, cho mọi con người.

Trong bất cứ trường hợp nào, Tiên Rồng vẫn luôn kết hiệp tương ứng, song hiệp.

a. Việc Làng

Ở Truyền kỳ Mỵ Châu, khi nàng Mỵ Châu có chiếc áo Tiên che giặc, (mặc áo lông ngỗng), thì Vua An Dương là Rồng tắc trách. Họ mang danh nghĩa Tiên Rồng để hưởng thụ vị kỷ. Họ rút mình vào thành Ốc, vào cái làng thành cao hào sâu, và áp đặt bạo lực lên dân. Họ trở thành Giặc cướp bạo tàn.

Ở Truyền kỳ An Tiêm, Tiên là chim đem lại mầm sống, Rồng An Tiêm chăm sóc cho kết trái mọng thơm. Thành quả, dưa hấu, được phổ biến, đem lại tươi mát ngon ngọt. Và dân chúng tụ họp thành làng, phát triển Làng thôn.

*134a - Truyền kỳ Mỵ Châu và An Tiêm cùng lo Việc Làng. Nhưng An Dương và Mỵ Châu thất bại, còn An Tiêm thành công.

- Về Truyền kỳ Mỵ Châu, đọc 209. Việc Giữ Dân Giữ Nước - Truyền Kỳ Mỵ Châu.
- Truyền kỳ An Tiêm, đọc 206. Nếp Sống Làng Thôn - Truyền Kỳ An Tiêm.

b. Việc Nước

Truyền kỳ Tiết Liêu lại có Tiên là Cụ Tổ dạy làm bánh, dạy phương thức cải tiến cuộc sống, và Rồng Tiết Liêu dấn thân thực hiện. Nhờ đó, nhờ Tiên Rồng song hiệp, nên sức sống gia tăng, dân an nước thịnh.

Ở Truyền kỳ Phù Đổng, Tiên là Cụ Tổ hiện về đem lại tinh thần và sức sống dân tộc, thì Rồng Vua Hùng vận dụng toàn dân, thể hiện công cuộc giải cứu dân nước. Nhờ vậy, Tiên Rồng hiệp nhau tạo cuộc sống mới, mọi người được sống hạnh phúc đích thực.

*134b - Hai Truyền kỳ Tiết Liêu và Phù Đổng cùng làm Việc Nước. Nhưng Tiết Liêu an dân ở thời bình, còn Phù Đổng cứu nước trong thời loạn.

- Về Truyền kỳ Tiết Liêu, đọc 205. Tiêu Chuẩn Làm Việc Nước - Truyền Kỳ Tiết Liêu.
- Truyền kỳ Phù Đổng, đọc 210. Công Cuộc Cứu Nước Cứu Dân - Truyền Kỳ Phù Đổng.

*

135 - TIÊU BIỂU CẢNH SỐNG của Cộng Đoàn Tiên Rồng

Bộ Truyền Kỳ Việt còn diễn tả cuộc sống con người qua những Cảnh Sống thực tế khác nhau. Mỗi Cảnh Sống không chỉ có những Tiêu chuẩn Thực hành riêng, mà tất cả tạo thành một toàn cảnh sống của Cộng Đoàn Tiên Rồng.

Tất cả đều phát xuất từ Truyền kỳ Tiên Rồng. Truyền kỳ Tiên Rồng phát khởi mọi cuộc sống, với hai biểu tượng : Bà Tiên Ông Rồng phối hiệp, và sinh ra Một Bọc Trăm Anh Em.

*

136 - Tiêu Biểu CẢNH SỐNG RIÊNG TƯ : Bốn Truyền kỳ Tình

Truyền kỳ Trầu Cau đem Hai Anh Em từ ‘Bọc Trăm Anh Em’ vào thực tế. Họ gặp một Cô Gái. Thực tế cuộc sống lại đưa tới 2 trường hợp : - Người Anh và Cô Gái thành Vợ Chồng, - Người Em và Cô Gái không duyên.

a. Thành Vợ Chồng

Người Anh thành chồng vợ với Cô Gái là thực tế của biểu tượng Tiên Rồng phối hiệp. Trong thực tế, đời sống Vợ Chồng lại đưa tới 3 hoàn cảnh khác nhau, được khai triển chi tiết, với những Tiêu chuẩn Thực hành, ở 3 Truyền kỳ :

1. Hai Vợ Chồng chung lòng và chung sống. Họ gặp nhau trọn vẹn, thông cảm nhau, và cùng nhau chung lo việc nhà, việc chung... Họ sống cuộc sống toàn vẹn, và giúp mọi người cùng phát triển và vui sống. Họ chính là Tiên Dung và Chử Đồng.

2. Hai Vợ Chồng chung lòng nhưng xa cách. Họ xa cách vì chia nhau công tác, vợ việc nhà, chồng việc nước. Nhưng họ có nhau từng ngày trong tâm tưởng... rồi nàng Vọng Phu trở thành Núi cao.

3. Hai Vợ Chồng chung sống nhưng xa lòng, như Mỵ Châu và Trọng Thủy. Chồng chỉ mưu đồ chiếm đoạt, vợ lại chỉ biết có chồng... nên hại nhà hại nước.

b. Không duyên số

Phần không duyên số giữa Người Em Vôi và Cô Gái, ở Truyền kỳ Trầu Cau, được diễn tả chi tiết và thực tế với mối tình bâng quơ và bất thành của Trương Chi và Mỵ Nương. Họ sống cảnh độc thân.

*136 - Đọc 222. Cấu Trúc Xã Hội Loài Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, đoạn 3.2.

*

137 - Tiêu Biểu CẢNH SỐNG VIỆC CHUNG : Bốn Truyền kỳ Việc

Cuộc thi ‘Tìm lễ vật dâng cúng Tổ Tiên’ để được nối ngôi vua, ở Truyền kỳ Tiết Liêu, cũng đã xảy ra 2 trường hợp : - Tiết Liêu ở nhà, làm vua, và - các Anh Em đi xa.

a. Làm Việc Nước

Việc làm vua, Làm Việc Nước, lại có 3 hoàn cảnh, với những Bài học và Phương thức Thực hành riêng, ở 3 Truyền kỳ :

1. Vị vua xứng đáng. Tiết Liêu dâng bánh chưng bánh dày, chứng tỏ Tiết Liêu đã thấu hiểu quan niệm và phương thức an dân thịnh nước, làm một vị vua xứng đáng.

2. Vị vua không xứng đáng, làm mất nước, là vua An Dương, ở Truyền kỳ Mỵ Châu.

3. Vị vua cứu lại nước Khi đã mất nước, tìm cách và cứu lại nước. Đó là Vua Hùng trong Truyền kỳ Phù Đổng.

b. Làm Việc Làng

Các Anh Em của Tiết Liêu ‘ra đi tìm của ngon vật lạ’ được diễn tả chi tiết ở Truyền kỳ An Tiêm. An Tiêm ra đảo và có được dưa hấu vừa lạ vừa ngon. An Tiêm biến đảo hoang thành làng, Làm Việc Làng, và trở thành người đại diện Làng, gởi dưa về dâng vua, chung phần với Nước.

*137 - Đọc 222. Cấu Trúc Xã Hội Loài Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, đoạn 3.3.

*

138 - Tiêu Biểu NHỮNG BÀI HỌC SỐNG của Cộng Đoàn Tiên Rồng

a. Ba Bài Học Nền Tảng : những Nguyên tắc nền tảng

1. Truyền kỳ Tiên Rồng nêu Nguyên lý nền tảng cho kinh nghiệm của người sống trọn vẹn Cuộc Sống Làm Người : sống vừa là Tiên Rồng song hiệp, vừa là Anh Em Một Bọc.

2. Truyền kỳ Chử Đồng đặt những Nguyên tắc nền tảng cho Sinh Hoạt Chung, Bình Đẳng tận căn cơ, như cuộc gặp gỡ và sống chung suốt đời của chàng không khố và nàng Công Chúa cổi hết áo quần, rửa sạch son phấn.

3. Truyền kỳ Trầu Cau lại đặt những Nguyên tắc nền tảng cho Tương Quan, Thân Thương toàn tâm, như cuộc sống trọn vẹn hai tương quan Anh Em ruột thịt và Vợ Chồng hiệp nhất. Ba người sống chết cho nhau, rồi dầu đã chết, vẫn có nhau mãi mãi.

b. Bốn Bài Học Sống Thực

1. Câu chuyện Trương Chi sống chết vì tình đã diễn đạt nền tảng hạnh phúc của đời sống Cá Nhân, và nêu những nguyên tắc để bộc lộ và phát triển Tình Yêu của từng Con Người.

2. Khi hai người đã thực sự yêu nhau, kết thành vợ chồng, thì Truyền kỳ Vọng Phu hướng dẫn về đời sống Gia đình, với gương người Vợ chu toàn Việc Nhà, trong khi người Chồng thi hành nhiệm vụ Việc Làng, Việc Nước.

3. Chu toàn phận vụ Làm Việc Làng lại được Truyền kỳ An Tiêm khai triển, với An Tiêm ra sức khai phá đảo hoang, tụ họp dân thành Làng và đóng góp cho nước, giúp cho đời thêm tươi mát. [Làng còn có nghĩa là cộng đoàn nhỏ].

4. Làm Việc Nước, qua sự chỉ dạy của Tổ và với tâm huyết, tài trí, của Tiết Liêu, nêu lên bài học ‘an dân thịnh nước’ cho những ai ảnh hưởng tới cuộc sống người dân.

* Bốn Truyền kỳ nầy hợp lại thành 4 tầm độ sinh sống của Con Người, bộc lộ cơ cấu giúp Con Người sống thực và phát triển trong cuộc sống thực tế hằng ngày.

c. Hai Bài Học Hưng Phục

1. Vấn đề Giữ Nước

Ở Truyền kỳ Mỵ Châu, vua An Dương làm Mất Nước, vì lần lượt xao lãng công tác giữ Nước.

Đang giữ toàn nước, ông lại xây thành : ông đã bỏ nước để chỉ còn giữ cái làng ông đang ở.

Rồi ông cưới rể Trọng Thủy, rước giặc vào nhà, tức là loại bỏ sự hữu hiệu của thành. Ông đã bỏ làng, chỉ giữ nhà.

Và cuối cùng ông chạy trốn, chém Mỵ Châu. Ông bỏ nhà, chỉ giữ bản thân ông.

2. Công cuộc Cứu Nước

Ở Truyền kỳ Phù Đổng, vì muốn cứu nước,

Vua Hùng đã cầu Tổ, tìm về cội nguồn, về tinh thần, về Con Người đích thực của ông. Ông gặp lại Tổ. Ông đã cứu lại chính ông.

Sau khi gặp Tổ, ông lập đoàn sứ nhân, tụ họp thân tín, tức cứu lại Nhà.

Đoàn sứ nhân vào các Làng loan tin giải cứu cho toàn dân. Ông cứu lại Làng.

Khi toàn dân vùng lên, qua biểu tượng Phù Đổng vươn vai, công cuộc Cứu Nước đã được thực hiện.

*138 - Đọc 222. Cấu Trúc Xã Hội Loài Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, phần 4.

* * * *

140 - NỀN TẢNG CẤU TRÚC của CỘNG ĐOÀN TIÊN RỒNG

a. Chủ tâm của Cộng Đoàn Tiên Rồng là thể hiện mọi đặc tính của Cuộc sống Con người và của Xã hội Loài người.

Vì vậy, Cấu trúc nền tảng của Cộng Đoàn Tiên Rồng cũng gồm : - phần Tiên, tức là phần Sống, phần bộc lộ tình Tương Thân; và - phần Rồng, tức là phần Động, phần thể hiện việc Phát Triển.

*140a - Đọc 226. Chủ Tâm và Thành Quả của Cuộc Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, đoạn 4.1.

b. Hơn nữa, hai thành phần Tiên và Rồng lại được thể hiện trong Cuộc sống Thực tại qua 4 Sức sống Thân Lực Thực Tại, Trí Tài Tinh Biến, Tâm Tình Thông Hiến, và Tuệ Linh Vĩnh Hiệp. Chính Tương Hệ giữa Tiên và Rồng, giữa 4 Sức Sống, tạo nên Cuộc sống thực tế của Con Người.

Cũng vậy, Cấu trúc của Cộng Đoàn Tiên Rồng hình thành trên Tương Hệ giữa 4 Sức Sống.

*140b - Đọc 225. Bốn Sức Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, phần 7.

c. Ngoài ra, Cộng Đoàn Tiên Rồng sống động dựa trên Nguyên lý nền tảng là Tiên Rồng Song Hiệp.

Vì vậy, Cấu trúc của Cộng Đoàn Tiên Rồng thể hiện Tiên Rồng Song Hiệp trong mọi cơ cấu lớn nhỏ và mọi lãnh vực chung riêng.

*140c - Đây chính là đặc điểm độc đáo của Cộng Đoàn Tiên Rồng, sánh với các loại tổ chức khác.
- Đọc 202. Nền Tảng Cuộc Sống Con Người và Xã Hội - Truyền Kỳ Tiên Rồng, đoạn 4.3, và phần 8.

*

141 - Cấu Trúc ĐƠN VỊ của Cộng Đoàn Tiên Rồng

Cấu trúc của một đơn vị của Cộng Đoàn Tiên Rồng hình thành theo cấu trúc của một Con Người, với bốn Sức Sống bất khả phân là Thân Lực, Trí Tài, Tâm Tình, và Tuệ Linh.

Bốn Sức Sống nầy chính là những khả năng cụ thể của con người được bộc lộ trong đời sống hằng ngày. Có những khả năng chuyên biệt thuộc một Sức Sống, nhưng cũng có nhiều khả năng là tổng hợp thuộc nhiều Sức Sống.

Do những khác biệt về bộc lộ và tầm độ của các Sức Sống mà việc Tự Phát triển, và việc Chung hiệp trong Cộng Đoàn, trở thành khác nhau.

Cũng vì vậy, Cộng Đoàn Tiên Rồng cần thể hiện những tương hệ nầy một cách thích đáng, thì mới thể hiện được Cấu trúc Cộng Đoàn thích đáng cho Mọi Con Người.

*141 - Đọc 225. Bốn Sức Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, phần 6. - Đọc 226. Chủ Tâm và Thành Quả của Cuộc Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, đoạn 4.1.

*

142 - Cấu trúc BỐN SỨC SỐNG của Con Người

Bốn Sức sống Thân Lực, Trí Tài, Tâm Tình và Tuệ Linh, là bộc lộ của những nhóm đặc tính nền tảng của Con Người trong cuộc sống thực tế.

a. Sức sống Thân Lực là sức sống thể hiện qua Thân thể của con người và chịu ảnh hưởng trực tiếp của ngoại vật, với Thực Tại. - Đây là phần Sức lực của Con người, phần giúp Con người Sống thực trong thực tại.

b. Sức sống Trí Tài là khả năng nhận định, suy luận, sáng tạo, và tài cải tiến, biến hóa, ứng dụng vào cuộc sống thực tế, Tinh Biến. - Sức sống nầy bộc lộ qua Tài khéo và Sáng tạo hầu như vô biên của con người... đưa tới việc phát triển, thăng tiến về mọi phương diện trong cuộc sống con người.

c. Sức sống Tâm Tình là cuộc sống Tình Nghĩa, cảm thông và sẵn sàng sống chết cho nhau, Thông Hiến. - Đây là Sức sống Tình Người, thúc đẩy con người Sinh hoạt chung, giúp nhau phát triển cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn của nhau.

d. Sức sống Tuệ Linh là Sức sống trường cửu, khả năng liên lạc và thông hiệp với thế giới linh thiêng - Vĩnh Hiệp. - Sức sống Tuệ Linh cũng thể hiện cuộc sống tích lũy và thông hiệp Phúc Đức cho mỗi thành viên, cho Cộng đoàn, cũng như cho các thế hệ mai sau.

*142 - Đọc 225. Bốn Sức Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, các đoạn 2.4, 3.3, 4.3, 5.3.

*

143 - Cấu trúc TẦM ĐỘ và ĐẶC CHUYÊN

Bốn Sức sống đều là Sức sống của một Con Người bất khả phân. Đã là cấu tố tạo nên Con Người thì phần nào cũng thiết yếu và đáng trọng như nhau.

Vì vậy, không có sự cao thấp, quý hèn giữa Bốn Sức Sống của con người. Cũng vậy, không có cao thấp, quý hèn, giữa các Đơn vị của Cộng Đoàn, mà chỉ có tầm độ và đặc chuyên khác nhau.

*143 - Ý niệm cao thấp, quý hèn, giữa các Sức sống Con Người, đã là những sai lầm đưa tới các đặc quyền, kỳ thị và áp chế trong các Cộng Đoàn, trong xã hội.
- Đọc 225. Bốn Sức Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, đoạn 7.3.

* * * *

150 - CẤU TRÚC TƯƠNG HỆ của CỘNG ĐOÀN TIÊN RỒNG

Cộng Đoàn Tiên Rồng gồm nhiều Con Người, mỗi con người lại gồm 2 phần Tiên và Rồng, với 4 Sức sống. Vì vậy, trong Cộng Đoàn Tiên Rồng, Tương Hệ giữa các Thành viên không chỉ khác nhau giữa các cá nhân nói chung, mà còn giữa từng Sức sống, từng phần Tiên hoặc Rồng.

Cũng vậy, Tương hệ giữa các Đơn vị của Cộng Đoàn Tiên Rồng cũng có mọi đặc tính như giữa các Thành viên.

*

151 - Cấu Trúc Tương Hệ Nền Tảng : Tương hệ 4 Sức Sống

Trong cuộc sống hằng ngày,

- Sống phần Tiên, tức là bộc lộ và phát triển Sức sống Tâm Tình và Tuệ Linh, chính là Sống Tình Tương Thân.

- Sống phần Rồng, tức là bộc lộ và phát triển Sức sống Thân Lực và Trí Tài, là Sống Việc Phát Triển.

Để Sống Tình Tương Thân, tức là để thực hiện và phát triển Sức sống Tâm Tình và Sức sống Tuệ Linh, (phần Tiên), Nếp sống Việt lại dùng hai Sức sống Thân Lực và Trí Tài, (phần Rồng), làm nền tảng bảo đảm cho cuộc sống Thân Thương an vững và sáng suốt.

Đồng thời, để Sống Việc Phát Triển, tức là để thực hiện và phát triển Sức sống Thân Lực và Sức sống Trí Tài trong cuộc sống hằng ngày, (phần Rồng), Văn hóa Việt lại dùng hai Sức sống Tâm Tình và Tuệ Linh, (phần Tiên), làm động cơ thúc đẩy và hướng dẫn thể hiện Công cuộc Chung.

*151 - Đọc 226. Chủ Tâm và Thành Quả của Cuộc Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, đoạn 4.1.

*

152 - Tương hệ Thành hình và Sinh hoạt Cộng Đoàn Tiên Rồng

Trong Tổ Chức Tiên Rồng, mọi thành viên cùng hiệp chung thành quả Sức sống Thân Lực, tức là Hiệp Sức. Cùng hiệp chung Sức sống Trí Tài, tức là Chung Tài. Cùng hiệp chung Sức sống Tâm Tình, tức là Đồng Tâm. Cùng hiệp chung Tuệ Linh, tức là Cộng Phúc.

Hiệp Sức và Chung Tài tạo thành phần Rồng của Cộng Đoàn Tiên Rồng, Đồng Tâm và Cộng Phúc tạo thành phần Tiên.

Tương Hệ được Thể hiện Đích thực qua việc cùng nhau phát hiện và thực thi mọi Phương thức Sống động Hiện thực, để cùng giúp nhau đồng thời thể hiện và tăng triển vừa sinh hoạt riêng của thành viên, vừa công tác thực thi các mục tiêu của Cộng Đoàn.

Cả hai sinh hoạt, riêng tư và Cộng Đoàn, được song hiệp trong cùng một công tác.

*152 - Phân biệt 'Hiệp' và 'Hợp' : Chữ Hiệp không những có nghĩa là ghép chung lại, như chữ hợp, mà còn thêm ý hòa lẫn vào nhau.


-


*

153 - Tương hệ Đồng Tâm Cộng Phúc và Hiệp Sức Chung Tài

Như Con Người gồm hai phần Tiên và Rồng, với bốn Sức sống Thân Trí Tâm Tuệ, Sức Sống của Cộng Đoàn Tiên Rồng cũng gồm hai phần là phần Đồng Tâm Cộng Phúc và phần Hiệp Sức Chung Tài.

Đồng Tâm Cộng Phúc, tức là tinh thần quyết tâm vì Sứ Mạng của Cộng Đoàn Tiên Rồng, (là phần Tiên), để Cộng Đoàn sống. Hiệp Sức Chung Tài, tức là khả năng thể hiện và tích cực góp phần vào Cộng Đoàn, (là phần Rồng), để Cộng Đoàn động.

Phần Hiệp Sức Chung Tài cần thiết cho việc thực hiện công tác và điều hành Cộng Đoàn Tiên Rồng. Phần Đồng Tâm Cộng Phúc lại là phần tăng triển Sức sống và định công đức của mỗi thành viên, và của toàn thể Cộng Đoàn Tiên Rồng.

*153 - Trong Nếp Sống Tiên Rồng, trong Cộng Đoàn Tiên Rồng, việc chung góp cho cộng đoàn cũng song hiệp với việc phát triển chính mình.




- Đọc 223. Giá Trị Cuộc Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, đoạn 4.2.

*

154 - Tương hệ Đồng Tâm Cộng Phúc và Hiệu năng Tài Sức

Nơi mỗi thành viên, cũng như trong toàn thể Cộng Đoàn Tiên Rồng, cần phân biệt Đồng Tâm Cộng Phúc, tức là Tinh Thần, tư cách, dung độ đức hưởng... với Hiệu Năng Tài Sức, tức là Thành quả Công tác.

Sự phân biệt nầy quan trọng bậc nhất cho việc phát triển toàn diện của Thành Viên và của chính Cộng Đoàn Tiên Rồng. Phải luôn thể hiện và điều hiệp sự phân biệt nầy, thì mới có thể thực thi hai nguyên lý Thân Thương Toàn Tâm và Bình Đẳng Căn Cơ.

Việc phân biệt và việc điều hiệp, Song và Hiệp, giữa Đồng Tâm Cộng Phúc và Hiệu Năng Tài Sức, một cách trọn vẹn và đúng đắn, hoàn và chỉnh, của hai phần Sống và Động, Tiên và Rồng, nầy, chính là Đặc tính và là Sức sống của Cộng Đoàn Tiên Rồng. Tiên Rồng Song Hiệp hoàn chỉnh.

*154 - Khi có một thành viên, hoặc đơn vị nào, mặc cảm, dầu tự tôn hay tự ty, thì đó là dấu hiệu Cộng Đoàn chưa thực thi trọn vẹn đặc tính nền tảng nầy.

*

155 - Tương hệ Đồng Tâm Cộng Phúc với Quyền hành và Lệ luật

Tương hệ giữa các Thành viên, và giữa các Đơn vị, cũng đặt ra vấn đề quyền hành, tức là phép được sử dụng phương tiện cần thiết để chu toàn nhiệm vụ. Quyền hành là để phục vụ hữu hiệu. Phục vụ hữu hiệu là nguồn gốc của mọi quyền hành.

Lại nữa, đặc tính Sống Động Hiện Thực còn đòi thiết định những lệ và luật thực tiễn và thích đáng. Luật và Lệ lại luôn kèm theo tầm độ cưỡng bách và những biện pháp chế tài thích ứng.

Những Lệ và Luật nầy được đặt trên nền tảng Đồng Tâm Cộng Phúc để trợ giúp việc Hiệp Sức Chung Tài.

Để thêm hữu hiệu, tùy tầm độ, lệ và luật có thể thêm chặt chẽ, thêm cưỡng bách.

*155 - Quyền hành không do bẩm sinh, cũng không do dòng họ hay đặc ân. Ở đâu có đặc quyền, ở đó có bất công.




- Về Bình Đẳng và Quyền Hành, đọc 204. Tiêu Chuẩn Để Sống Bình Đẳng - Truyền Kỳ Chử Đồng, đoạn 7.1.

- Để Con Người được tự do tự chủ thực sự, để Con Người được phát triển trọn vẹn, vừa phải có luật và vừa phải có lệ, vừa phép nước vừa lệ làng. Có Lý mà cũng có Tình, có trật tự Xã hội mà cũng có cuộc sống của mỗi Con người.

- Về Lệ và Luật, đọc 205. Tiêu Chuẩn Làm Việc Nước - Truyền Kỳ Tiết Liêu, đoạn 7.2.

*

156 - Tương hệ Đồng Tâm Cộng Phúc với Thiểu số và Đa số

Nguyên tắc ‘Thiểu số phục tùng Đa số’ chỉ đúng khi mọi người trong cuộc cùng có một mục tiêu duy nhất là ‘Cùng Nhau Hưởng Lợi’. Nguyên tắc nầy, cùng với mục tiêu ‘Cùng nhau hưởng Lợi’, không thể áp dụng vào những vấn đề nền tảng của Cuộc sống Con người và của Xã hội Loài người.

Tất cả mọi tương quan và sinh hoạt của Con người, và của Xã hội Loài người, đều phải đặt trên những tiêu chuẩn thích đáng của Cuộc sống Con người, giúp bộc lộ và phát triển trọn vẹn mọi Sức Sống của mọi Con người, để mọi người cùng nhau chung hưởng Hạnh Phúc Làm Người.

*156 - Cũng vậy, cần nhận định chính xác, không áp đặt những khiếm khuyết, cục bộ, của một nhóm nhỏ, thành căn bản cho toàn thể xã hội.

- Đọc 207. Đời Sống Gia Đình - Truyền Kỳ Vọng Phu, đoạn 10.2 Và 10.3.

- Về Thiểu số và Đa số, đọc 205. Tiêu Chuẩn Làm Việc Nước - Truyền Kỳ Tiết Liêu, đoạn 7.3.

*

157 - Tương hệ Chủ Tâm và Thành quả

Chủ tâm là chủ lực thúc đẩy và hướng dẫn toàn thể mọi hành vi của thành viên cũng như của toàn thể Cộng đoàn. Thành quả là kết quả đương nhiên của cuộc sống thể hiện Chủ tâm.

Cộng Đoàn, cũng như Thành viên, không để Thành quả ám ảnh, và nhất là không biến Thành quả thành Chủ tâm.

Nếu lấy Thành quả làm Chủ tâm, làm chủ đích của sinh hoạt, của cuộc sống, thì sẽ áp dụng những phương thức không thích đáng, hình thức... đưa cuộc sống xa hiện thực, không sống trọn vẹn cuộc sống con người.

*157 - Đọc 226. Chủ Tâm và Thành Quả của Cuộc Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, đb phần 3.

*

158 - Biểu đồ CẤU TRÚC của Cộng Đoàn Tiên Rồng : Hoa Tiên Rồng

a. Hoa Tiên Rồng biểu trưng cho Con Người với bốn Sức sống Thân Trí Tâm Tuệ bất khả phân. Theo cấu trúc, Cộng Đoàn Tiên Rồng cũng được biểu trưng bằng Hoa Tiên Rồng.

Mỗi thành viên là một Hoa Tiên Rồng, mỗi đơn vị lớn nhỏ cũng là một Hoa Tiên Rồng, mà toàn thể Cộng Đoàn Tiên Rồng cũng là Hoa Tiên Rồng. Nhiều Hoa nhỏ kết tụ thành một Hoa lớn hơn.

b. Biểu đồ

Bốn vòng tròn bằng nhau tượng trưng cho bốn Sức Sống.

Vì bốn Sức Sống chia làm hai cặp : cặp Thân, Trí của biểu tượng Rồng, và cặp Tâm, Tuệ của biểu tượng Tiên, nên bốn vòng cũng chia thành hai cặp, và mỗi cặp cắt nhau tại tâm.





Cặp nằm ngang chỉ phần Tiên, Đồng Tâm và Cộng Phúc. Cặp vòng đứng dọc chỉ phần Rồng, Hiệp Sức và Chung Tài.

Theo thứ tự, vòng 1 chỉ Hiệp Sức, vòng 2 chỉ Chung Tài, vòng 3 chỉ Đồng Tâm, vòng 4 chỉ Cộng Phúc.

Phần Nhụy, chính giữa, biểu trưng cho Đơn vị Tổ Chức Tiên Rồng, gồm cả 4 Sức Sống. Các phần ngoài lần lượt diễn đạt các tương quan và tổng hợp giữa các Sức Sống của Tổ Chức.

Vòng thứ năm, phần ngoài cùng, biểu trưng cho mọi hữu thể ngoài Tổ Chức.

* Vì biểu đồ căn cứ trên hai biểu tượng Tiên Rồng, nên có tên là Hoa Tiên Rồng.

c. Biểu trưng Thực thể Nhân Sinh

Hoa Tiên Rồng biểu trưng cho các Sức Sống sống động hiện thực của Con Người, nên cũng biểu trưng cho mọi thực thể nhân sinh, và có nhiều tầm độ thực tại như Tiên và Rồng.

Do đó, Hoa Tiên Rồng cũng giúp nhận diện và sống thực mọi thực thể nhân sinh, với mọi ứng dụng cũng biến hóa thần diệu như Tiên Rồng.

*158 - Đọc 225. Bốn Sức Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, phần 8.

* * * *

160 - SINH HOẠT của CỘNG ĐOÀN TIÊN RỒNG

Mục Tiêu thực tiễn và tối hậu của Cộng Đoàn Tiên Rồng là vừa thể hiện và phát triển trọn vẹn bốn Sức sống Thân Trí Tâm Tuệ nơi riêng từng Con Người, và vừa sống thực và phát huy các nguyên lý sống chung, là Thân Thương Toàn Tâm và Bình Đẳng Căn Cơ, nơi mọi Sinh hoạt của Xã Hội loài người.

Nhờ đó, đưa tới Tương thân và Phát triển toàn diện của từng Con người cũng như của toàn thể Xã hội.

Thực vậy, Sứ mạng của Cộng Đoàn Tiên Rồng là thể hiện và phát triển Nếp Sống Tiên Rồng, để mỗi một, và mọi Con Người, thực sự sống trọn vẹn chính mình, trong an thịnh và hạnh phúc, cùng chung với những Con Người khác.

Do đó, Mục tiêu Sinh Hoạt của Cộng Đoàn Tiên Rồng chính là tạo môi trường thuận tiện và thường trực để mỗi thành viên phát triển chính mình và chu toàn sứ mạng đời mình.

*160 - Về Bốn Sức Sống, đọc 225. Bốn Sức Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, đb các đoạn 2.4; 3.3; 4.3; 5.3; và 6.2; 6.3. - Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi sống trọn vẹn bốn hiệp tính, dầu việc bộc lộ có thể ở tầm độ khác nhau.

- Về các Nguyên lý Sống Chung, đọc bài 204. Tiêu Chuẩn Để Sống Bình Đẳng - Truyền Kỳ Chử Đồng, đb đoạn 4.5; và 203. Tiêu Chuẩn Để Sống Tình Người - Truyền Kỳ Trầu Cau, đb đoạn 5.6.

*

161 - Nền tảng Sinh Hoạt : Tiên Rồng Song Hiệp và Sống Động Hiện Thực

Cũng như Tiên Rồng, Sức sống nền tảng của Sinh Hoạt Cộng Đoàn Tiên Rồng là Tiên Rồng Song Hiệp. Mọi sinh hoạt, mọi công tác, mọi mục tiêu, đều hàm chứa và tỏ hiện Hai phần tiêu biểu Tiên và Rồng sóng đôi.

Cũng vậy, Sống Động Hiện Thực là yếu tố quyết định sự tăng triển và hữu hiệu của Cộng Đoàn. Sống Động Hiện Thực vừa cho từng Con người Thành viên, vừa cho Cấu trúc và Sinh hoạt của Cộng Đoàn.

Đối với mỗi thành viên, sinh hoạt của Cộng Đoàn không những phải là một mục tiêu thực tế mới và phải hiển hiện với những mẫu mực sống động, tác động tâm cảm và trở thành cuộc sống của chính thành viên đó.

Vì vậy, sinh hoạt của Cộng Đoàn phải luôn dựa vào mọi khía cạnh thực tế mà ứng biến cho hữu hiệu. Nhờ đó, Sinh hoạt của Cộng Đoàn mới có thể vừa bộc lộ đặc tính biến hóa thực tiễn thuộc phần Rồng, vừa không ngừng thể hiện mục tiêu, tức là để song hiệp với đặc tính trường cửu thuộc phần Tiên. Tiên nào Rồng nấy, Rồng nào Tiên nấy.

*161 - Đọc 210. Công Cuộc Cứu Nước Cứu Dân - Truyền Kỳ Phù Đổng, đoạn 6.1.

*

162 - Thành Tố Sinh Hoạt : Tầm Độ Thành Viên và Mục Tiêu Thực Hành

Mục tiêu Sinh hoạt của Cộng Đoàn Tiên Rồng là cải tiến nếp sống của Thành viên. Vì vậy, Tầm độ Thành viên, dưới mọi khía cạnh của cuộc sống, là yếu tố thiết yếu và nền tảng của mọi Sinh hoạt của Cộng Đoàn Tiên Rồng.

Tầm độ của Thành viên cần được nhận thức thực tế trong mọi trường hợp. Các mục tiêu cũng cần được phân tích thành chuỗi các thực hành dễ thấy, dễ hiểu, dễ làm và dễ thành.

Tất cả đều góp phần để mỗi một Con người, và toàn thể Cộng đoàn, được sinh hoạt và phát triển toàn diện Cuộc sống Con người, và Cuộc sống Xã hội đích thực là Người.

*

163 - TẦM ĐỘ THÀNH VIÊN : Khả năng và Tiềm năng

Bất cứ Thành viên nào, mọi con người, đều có Khả năng và Tiềm năng. Vì vậy, mọi sinh hoạt của Cộng Đoàn Tiên Rồng vừa phải phù hợp với khả năng thực tại và vừa phải trợ giúp phát triển tiềm năng của thành viên.

Để phát huy Tiềm năng, để vừa thêm thể hiện trọn vẹn con người của mình, và vừa thêm chu toàn sứ mạng chung của Cộng Đoàn, mọi thành viên đều phải luôn tăng triển những đức tính thiết yếu. Thành viên mỗi ngày luôn

- thêm nhận thực hiện trạng và sứ mạng của mình,

- thêm thấm nhuần nếp sống Tiên Rồng,

- thêm thích ứng và cải hóa mọi tình thế,

- thêm dấn thân sinh hoạt, thể hiện cho chính mình và cho Cộng đoàn.

*163 - Các đức tính nầy được khai triển ở 210. Công Cuộc Cứu Nước Cứu Dân - Truyền Kỳ Phù Đổng, đb phần 6.

*

164 - Tầm độ Năng khiếu

Cũng như Con Người tự bộc lộ dưới 4 Sức sống với nhiều tầm độ khác nhau, Sinh hoạt của Cộng Đoàn Tiên Rồng cũng gồm nhiều chuyên biệt, nhiều năng khiếu tổng hợp và nhiều tầm độ. Các năng độ nầy cần được nhận định cụ thể, không những nơi từng thành viên, mà còn cho từng công tác.

Tầm độ Năng khiếu cũng theo 4 Sức Sống của Con Người, chia thành 4 Ngành tổng quát, với vô số ngành nghề và tầm độ khác nhau, tạo thành một Cuộc sống Xã hội đa năng đa diện, bao trùm mọi khía cạnh của cuộc sống, và giúp cho mọi người, không trừ ai, đều có một chỗ đứng thích đáng trong Xã hội.

a. Tầm Năng khiếu Thân, bộc lộ và thể hiện qua chính thân thể mỗi người, trong thế giới vật chất, với mọi trạng huống thực tại.

b. Tầm Năng khiếu Trí, với những thành quả tiêu biểu như những học thuyết và những khám phá, những phát minh, những ứng dụng khoa học và kỹ thuật tinh xảo, đa dụng.

c. Tầm Năng khiếu Tâm, trở thành động lực thúc đẩy con người Sinh hoạt chung, thông hiệp và chia sẻ cuộc sống, giúp nhau phát triển cuộc sống và hạnh phúc của nhau.

d. Tầm Năng khiếu Tuệ, bộc lộ đặc tính kết hiệp và trường tồn của tâm hồn con người, và khả năng của con người thông hiệp với Thế giới Siêu linh.

*164 - Về Bốn Sức Sống, đọc 225. Bốn Sức Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, đb các đoạn 2.4; 3.3; 4.3; 5.3; và 6.2; 6.3.

*

165 - Tầm độ Dấn Thân

Theo Truyền kỳ Phù Đổng, có 4 Tầm độ Dấn thân :

a. Tầm Đồng Bào, tất cả mọi người.

b. Tầm Sứ Giả, những người dành một số sinh hoạt cho sứ mạng.

c. Tầm Sứ Nhân, những người sống trọn vẹn cuộc sống vì sứ mạng.

d. Tầm Phù Đổng, những người thực thi sứ mạng đặc biệt như Vua Hùng, Phù Đổng, (trong Truyền kỳ Phù Đổng).

*165 - Đọc 210. Công Cuộc Cứu Nước Cứu Dân - Truyền Kỳ Phù Đổng, phần 7.

*

166 - Tầm độ Môi Trường

Theo cơ cấu Xã Hội Loài Người, Môi trường Sinh hoạt của Cộng Đoàn Tiên Rồng cũng được chia thành 4 Tầm độ tiêu chuẩn, tức là Cá Nhân, Gia Đình, Làng, và Nước.

Hai Tầm độ Cá nhân và Gia đình thiên về những sinh hoạt theo ảnh hưởng của Đời sống Tương quan thân thương. Hai Tầm độ Làng và Nước thiên về những hoàn thành trong Đời sống Sinh hoạt phát triển.

Tầm độ Môi trường giúp cho cuộc sống của mỗi Con Người, và mọi Con người, một vị thế thích đáng trong xã hội.

a. Tầm Cá Nhân, không chỉ là bản thân, mà còn gồm những người do ảnh hưởng thân cận trong cuộc sống. Tầm Cá nhân còn gồm cha mẹ, anh chị em, hoặc vợ chồng, con cháu, hoặc hàng xóm, bạn bè cùng sở làm, cùng sở thích, cùng nhóm đội...

b. Tầm Gia đình gồm họ hàng, đại gia đình, họ tộc, hoặc đồng nghiệp, đồng hương, hội đoàn đông người...

c. Tầm Việc Làng gồm những thành phần cơ cấu Làng xã Quận huyện, hoặc thuộc ngành nghề, hội đoàn, tổ chức... có cùng tầm độ như làng quận.

d. Tầm Việc Nước gồm những Tỉnh, Thị, Bộ, quốc tế, nhân loại, hoặc những Hội đoàn, Tổ chức cùng tầm độ.

* Trong mỗi Tầm độ Môi Trường đều có những Thành viên với nhiều Tầm độ Năng khiếu và Tầm độ Dấn Thân.

*166 - Đọc 222. Cấu Trúc Xã Hội Loài Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, đb phần 5, Sơ đồ; và phần 6.

*

167 - Tầm độ Giá Trị

Tầm độ Giá Trị giúp mọi người thăng tiến bản thân, và thăng tiến toàn bộ Cộng đoàn, Xã hội.

Theo bảng định Giá Trị Cuộc Sống Con Người của Văn hóa Việt, từ dưới lên, gồm 4 Cặp tiêu chuẩn :

a. Sống cho Tình Riêng

Tầm a1. Thấp nhất trong Bậc thang Giá trị là người chỉ biết có Tình Riêng, đến nỗi làm hại Việc Chung. - Như Mỵ Châu vì tin yêu chồng mà hại nước. Nàng phải đền tội, chỉ còn giọt máu vì tình được hóa thành ngọc.

Tầm a2. Khá hơn, là người sống cho Tình, không hại người mà cũng không giúp ích cho ai. - Như Trương Chi chỉ sống trong trái tim và hòa tan trong giọt nước mắt của người tình.

b. Sống trọn Tình Nhà Tình Nước

Tầm b1. Được kể là đáng nêu gương, cuộc sống của những người sống chết vì Tình Nhà, vì anh em. - Như người Em Vôi. Thân xác biến thành khối đá, chờ hòa tan trong tình máu mủ, với Anh Cau và Chị Trầu.

Tầm b2. Cao hơn một bậc là những người vừa trọn Tình Nhà vừa trọn Tình Nước. - Như vợ chồng nàng Vọng Phu. Nàng chu toàn việc nhà để chồng lo việc nước. Nàng vươn cao thành núi, góp phần phát triển đất nước, trường tồn với núi sông.

c. Sống lo Làng Nước

Tầm c1. Những người làm Việc Làng, giúp phát triển một địa phương, một thành phần xã hội. - Như An Tiêm lập làng và đóng góp cho Nước.

Tầm c2. Những người làm Việc cho cả Nước, cho mọi người, như Tiết Liêu an dân thịnh nước.

d. Sống Đời hoàn hảo

Tầm d1. Cuộc sống lý tưởng của con người, những cặp Vợ Chồng. - Như Chử Đồng và Tiên Dung, đã sống trọn vẹn đời sống bản thân, chung nhau xây dựng cuộc sống gia đình và cùng nhau giúp làng giúp nước... Những cuộc sống phát triển toàn diện, đem lại hạnh phúc cho chính mình và cho những người chung quanh. Họ cùng nhau ‘về trời’, chung hưởng hạnh phúc trọn vẹn... và được thờ kính.

Tầm d2. Cao nhất là người sống trọn cuộc sống Bản thân, phát triển Tình Nhà, chấn hưng Làng thôn, và góp phần khôi phục Dân Nước, đánh tan mọi thứ giặc, khai mở kỷ nguyên thanh bình hạnh phúc cho mọi người. Những cuộc sống thành thần thành thánh, như Thần Trời Phù Đổng.

*167 - Đọc 223. Giá Trị Cuộc Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, đb phần 4.

*

168 - Biểu đồ SINH HOẠT của Cộng Đoàn Tiên Rồng: Hoa Bảo Bình

a. Hoa Bảo Bình là biểu đồ của bảng Giá Trị Cuộc Sống Con Người, đặt nền tảng trên hai nguyên lý Thân Thương toàn tâm và Bình Đẳng căn cơ. Tên Hoa Bảo Bình bao hàm ý nghĩa yêu thương bảo bọc và bình đẳng tận căn cơ.

Vì vậy, Hoa Bảo Bình cũng là biểu đồ của Tầm độ Sinh hoạt, cũng như của mọi Tầm độ khác, của Thành viên, của Đơn vị, cũng như của toàn thể Cộng Đoàn Tiên Rồng.

b. Hình vẽ

Biểu đồ có 5 vòng lồng nhau, dính ở đáy. Đường kính vòng tròn thứ nhì bằng một rưỡi đường kính vòng tròn thứ nhất, đường kính vòng thứ ba bằng hai đường kính vòng thứ nhất, rồi hai rưỡi, ba. Có thể tô các vòng, cho thêm rõ nét.



c. Ý nghĩa

Biểu đồ Tầm độ Giá Trị của Sinh hoạt trong Cuộc sống Hiện thực, giữa Vạn vật.

- Bốn vòng tròn nhỏ biểu trưng cho bốn cặp Tầm độ Giá trị. Vòng trong cùng để chỉ tầm độ Sống Cho Tình Riêng. Vòng 2 chỉ tầm độ Trọn Tình Nhà Tình Nước. Vòng 3 chỉ tầm độ Sống Lo Làng Nước. Vòng 4 chỉ tầm độ Cuộc Sống Hoàn Hảo.

- Vòng ngoài cùng, vòng 5, biểu trưng cho Vạn vật, bao gồm cả Thế Giới Siêu Linh, nơi Hồn Thiêng Tổ Tiên và Thần Linh đang hiện hữu, và bảo bọc, phù hộ con cháu.

Phần ngoài cùng của vòng nầy nhắc nhớ Ông Trời, Đấng Nguồn Sống, Đấng sinh dựng và không ngừng bảo bọc toàn thể vũ trụ.

Vòng ngoài không những lớn hơn vòng trong, mà còn là bảo bọc che chở.

*168 - Đọc 223. Giá Trị Cuộc Sống Con Người qua Bộ Truyền Kỳ Việt, phần 5.


Nguyễn Thanh Đức 2016